Đọc THẦN KHÚC CỦA ĐANTE ALIGHIÊRI (1265-1321) GS Nguyễn Văn Hoàn dịch và chú giải Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 2009 TS Phạm Trọng Chánh Lần cuối cùng gặp nhau tại Paris thấm thoát đã ba mươi năm. Nay thư từ trở lại Gs Nguyễn Văn Hoàn gửi tặng tôi bản dịch thơ Thần Khúc của Dante và tôi gửi tặng giáo sư Truyện thơ Odyssée và Sử thi Iliade của Homère tôi diễn ca ra thơ lục bát. Không hẹn mà cùng làm một công việc mạo hiểm đội đá vá trời như nhau. Tôi và anh đều mừng vì hiểu rằng dịch các tác phẩm thi ca vĩ đại của nhân loại như Homère, Dante, Shakespeare và Goethe, trăm người khởi hành chỉ có hai ba người là đến đích. Dịch các tác phẩm thi ca vĩ đại là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm kiên nhẩn, đam mê, trì chí từng bước từng bước một, ròng rã trong 10 năm, 20 năm, 30 năm. Không có một ngân sách quốc gia nào có thể bỏ ra để đầu tư cho một việc làm như thế. Hoàn toàn không có gì chắc chắn người dịch đạt đến mục đích cuối cùng. Khác với dịch văn xuôi, mỗi câu thơ là một dòng chữ cô đọng ngắn gọn, súc tích, nhiều điển tích, hình ảnh, và vần điệu. Chuyển thế nào để người đọc thấy cái đẹp trong từng câu thơ, nhất là thơ các bậc thi hào, thi bá, mỗi câu thơ như một viên ngọc bích hoàn hảo, tuyệt đẹp, không thể thay một chữ, hay đổi một câu. Người dịch nếu không lượng được sức mình, bỏ cuộc thì chỉ mất thời gian là chuyện bình thường. Đa số các bản dịch thi ca chỉ dịch ra ý, và bỏ mất đi phần thi ca, vần điệu, hình ảnh, âm nhạc... Tác phẩm dịch chỉ là cái xác không hồn. Và dịch xong tìm người đọc và phê bình cũng không dễ, vì tìm một người Việt đọc đủ trình độ, kiến thức để làm công việc này càng hiếm có.. Là người cùng làm công việc phiêu lưu mạo hiểm, tôi hiểu nhiều về anh và xin phép anh làm cái công việc ít ai dám làm là được đọc và giới thiệu công trình của anh, Thần Khúc Dante, tác phẩm văn học vĩ đại nước Ý thời Trung Cổ và thử diễn ca thành ngôn ngữ Truyện Kiều, thơ lục bát vài Ca khúc. Bộ Từ điển Từ Hải của Trung Quốc cho rằng Homère, Shakespeare, Dante và Goethe là Tứ đại thi thánh của văn học phương Tây. Tự điển Từ Hải quá tóm lược, vì Dante chỉ cho mình là học trò của Virgile, và Virgile chỉ cho mình là học trò của Homère. Homère được xem là Thủy Tổ của văn học phương Tây. Jean Auguste Dominique Ingres vẽ năm 1827, tác phẩm Vinh danh Homère hiện lưu trử tại Viện Bảo Tàng Louvre Paris. Homère được thần nữ thi ca trao vòng nguyệt quế, chung quanh có 28 thi hào, văn hào từ Socrate, Platon, Aristote đến Virigile, Shakespeare, Dante, Molière.. Ngôn ngữ Pháp, được xem là ngôn ngữ Molière, ngôn ngữ văn chương Âu Châu, nếu không biết tới Le roman de la rose (tiểu thuyết Hoa Hồng, 21677 câu thơ) của Guillaume de Lorris và Jean de Meung, là những thiếu sót lớn. Chúng ta biết gì về văn hóa Tây Phương ? Nếu không dịch những tác phẩm vĩ đại của nhân loại. Người Việt Nam chúng ta còn có những khoảng trống kiến thức rất lớn. Nếu muốn tham gia vào những cuộc chơi thế giới, có mặt Hội Homère học thế giới, Hội Dante học, hay đạt được giải Nobel Văn Học chẳng hạn. Khâu dịch thuật cần đi trước, đưa người Việt Nam tiếp cận với 28 văn hào lớn của lịch sử văn học Tây Phương. Nước Nhật đã làm công việc này từ thế kỷ qua, từ năm 1942 đã có một bản dịch thơ Homère hoàn chỉnh. Điều đáng mừng cho nước ta ngày nay đã có những nhà dịch thuật lưu tâm đến việc đặt nền tảng cho việc nâng cao dân trí người VIệt Nam ngang tầm với dân trí những nước phát triển trên với thế giới. Và có sự hợp tác trong và ngoài nước, giữa trí thức Việt Kiều hải ngoại, và trí thức trong nước... Bàn chuyện dịch thuật các tác phẩm lớn của nhân loại, trong thời điểm, sách giá trị chỉ in ấn 500, 300 quyển cho một dân tộc 90 triệu người trong nước, và 4 triệu người Việt tại hải ngoại. So với các nước tiên tiến, 20 000 quyển cho một đầu sách trung bình, hệ thống hàng chục ngàn thư viện công cộng miễn phí, từ thành phố đến làng quê, mua một phần lớn sách xuất bản cũng đủ giải quyết vấn đề lời lỗ. Nước ta chưa có một hệ thống thư viện miễn phí, một phóng viên đi trong thành phố ba tuần lễ mới gặp được một người cầm sách đọc, một cuộc điều tra trên báo chí, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm. Tình trạng thật bi quan, dân trí nước ta quá kém cõi, đi thua các nước Tây Phương hàng trăm năm, thua cả Thái Lan, Nam Hàn ba chục năm. Các nhà văn ta ra đời, có tài, có đủ khả năng như mọi nhà văn khác trên thế giới, nhưng không đủ sức, đủ kiến thức đi đường trường, chỉ đánh được ba búa, ra được ba tác phẩm, rồi hết vốn kiến thức, viết cứ lập đi lập lại, văn chương nhạt nhẻo dần, người đọc nhàm chán. So với thời kỳ khởi đầu văn học chữ quốc ngữ những năm 1930-1945, ngày nay ta không đi xa hơn, thậm chí còn thụt lùi. Cho đến nay chúng ta không có nhà văn nào ngang tầm với thời tiền chiến 1930-1945 Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.. chúng ta cũng không có được nhà thơ nào ngang tầm với Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính.. Nhưng tôi vẫn tin rằng đó chỉ là tình hình tạm bợ, rồi đây khi kinh tế đi lên, chúng ta sẽ tổ chức một hệ thống thư viện từ thành phố đến làng, thôn, khu phố, như các nước, sách miễn phí cho mọi người, trẻ em sẽ được dạy phương pháp đi tìm sách vỡ, tài liệu từ mẫu giáo, tiểu học, khuyến khích cho trẻ em khát vọng tìm kiếm, bồi bổ kiến thức nhà trường, chỉ cần vài thế hệ với chính sách đúng đắn của Bộ Văn Hóa, Bộ Giáo Dục, việc nâng cao dân trí sẽ phát triễn nhanh chóng. Ước mơ như thế, nhưng tình hình không phải dễ dàng, trước sự bùng nổ phát triễn của thông tin, những trò chơi bằng hình ảnh trên máy điện toán, điện thoại di động, những phim ảnh tràn ngập thị trường, nếu phụ huynh không cẩn thận, như thuốc bổ dùng quá liều lượng, trở thành thuốc độc, những căn bệnh thời đại mới nảy sinh, trẻ em ngày một thụ động trước màn ảnh, mất dần đi sự tìm kiếm, sáng tạo, tưởng tượng, cầm đến cuốn sách là ngắm mắt ngủ ? GS Nguyễn Văn Hoàn nguyên Giáo sư Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội và nhà nghiên cứu kỳ cựu, Viện Văn Học Việt Nam, đã hưu trí từ lâu, nay đã thành lập Hội Kiều Học Việt Nam, do GS làm Hội Trưởng, nhằm mục đích nghiên cứu Truyện Kiều và thi hào Nguyễn Du và mời tôi tham gia. Truyện Kiều còn, nước ta còn, tiếng ta còn như lời cụ Phạm Quỳnh. Chúng ta bắt đầu bằng cái ta yêu trước tiên. Ta có yêu văn hóa của ta, thì ta mới trân trọng văn hóa các nền văn minh nhân loại. Để nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du, tôi và GS Nguyễn Văn Hoàn cùng làm một chuyện giống nhau, là đi đi Trung Quốc theo bước đường Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc, nghiên cứu từng địa danh Trung Quốc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nói đến Hy Lạp, người ta nói đến Homère, Virgile ngôn ngữ tiếng La Tinh, nói đến Đức là ngôn ngữ của Goethe, nói đến Anh là ngôn ngữ của Shakespeare, Pháp ngôn ngữ của Molière, Ý ngôn ngữ của Dante, Trung Quốc ngôn ngữ của Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ.. và Việt Nam ngôn ngữ của Nguyễn Du.. Trong xã hội hiện đại ngày chúng ta cần mở rộng để thu nhận những tinh hoa thế giới và phổ biến cho nhân loại những tinh hoa của đất nước ta. Trong bài viết này tôi giới hạn về Thần Khúc Dante do GS Nguyễn Văn Hoàn dịch và chú giải. Dante được người đời gọi là người cha của tiếng Ý và của Văn Học Ý. Thần Khúc là Kinh Thánh của thời Trung Cổ, Dante là Homère của nước Ý. Ưu điểm của GS Nguyễn Văn Hoàn là dịch Thần Khúc của Dante, sau hai năm học tiếng Ý, một công việc vừa học vừa làm rất có hiệu quả, không gì hay hơn, nhiều nhà văn thế hệ trước như ông Nguyễn Hiến Lê đã từng áp dụng việc này : chọn dịch một tác phẩm một đề tài mình say mê, qua đó mình kiên trì học hỏi và hoàn thành được tác phẩm.. Khi dịch Dante đã thăm quê hương của Dante, thăm ngôi nhà nơi Dante sinh ra tại Firenze (Florence theo tiếng Pháp) sự tiếp cận này rất quan trọng vì không đi thăm, không hít thở cái không gian nhà thơ đã sống, không thể dịch chính xác những điều nhà thơ đã viết ra. Người dịch mà không đi thăm quê hương người viết, không tìm hiểu bối cảnh, môi trường sống người viết, thì văn chương người dịch giống như chuyện ngụ ngôn con cá tả cảnh đất liền theo lời con rùa. Nhiều người Pháp dịch thơ Homère trước khi đi Hy Lạp, khi được đi Hy Lạp về phải viết lại gần như toàn bộ. Tôi đã từng đi thăm Florence, thăm vùng Toscane quê hương của Dante, đọc bản dịch của Gs Nguyẽn Văn Hoàn tôi càng thấm thía, càng say mê hơn thi ca của Dante. Để dịch Odyssée và Iliade, tôi đã đọc khá nhiều sách về Hy Lạp, xem nhiều phim tài liệu về hành trình Odyssée, tôi đã đến tận nơi các di tích, thăm quê hương của Ulysse của Homère, đến thăm những ngọn núi lửa, nơi Homère nhân cách hóa thành những vị thần khổng lồ, thần một mắt ném những tảng đá to bằng con bò, đắm vỡ thuyền và bắt người ăn thịt, thăm thạch động ở Malte, tương truyền là nơi Ulysse bị Calypso giam giữ, thăm bờ biển cát nơi Ulysse chiều chiều ra ngóng về quê hương, tôi đã đi thuyền tàu ban đêm trên sóng nước biển Hy Lạp, nghe tiếng cá heo như tiếng những nàng nhân ngư, và từng ngủ lại đêm cắm trại trên bờ biển vắng Hy Lạp, để đón ánh bình minh, ngắm hoàng hôn rực đỏ trên bầu trời xanh vắt, trong những ngôi nhà sơn trắng , cửa xanh, giàn bông giấy rực đỏ..Dịch là tái sáng tạo , chuyễn ngữ từ một ngôn ngữ này ra ngôn ngữ khác, nếu không thấy không gian sinh sống người viết, bản dịch khó mà hoàn hảo. Để dịch Dante, GS Nguyễn Văn Hoàn đã học tiếng Ý tại Ý, và trở về nước mang theo khá nhiều sách báo về Dante và văn học Ý và nhiều lần sang dự Hội nghị Ý- Việt tại Ý. Cách làm việc của giáo sư trả lời các người bạn Ý là : " Tôi luôn luôn có trước mặt ba bản dịch Thần khúc bằng tiếng Ý với lời chú giải rất tỉ mỉ. Tôi cũng luôn có ở trước mặt ba bản dịch Thần khúc sang tiếng Pháp. Tôi đọc đối chiếu từng câu giữa các bản, cố gắng nắm bắt cho được nguyên ý của Dante. Sau đó tìm cách diễn đạt sang ngôn ngữ dân tộc của chúng tôi ". (Thần khúc, tr 17,18). Tuy nhiên " Thầy bói, bói ra ma, quét nhà thì ra rác " không ai tránh khỏi những khuyết điểm, có khi điểm sai nằm sờ sờ, mình đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần mà không thấy, người đánh cờ ngoại cuộc nhìn vào sáng nước thấy liền : Ví dụ Khúc I, Thiên Đường : câu 19-21 " Xin (Áppônlo) hãy nạp vảo ngực tôi hơi thở Như người đã có khi hạ Mácsia Làm văng bao tay của hắn." Nguyên tác tiếng Ý Entra nel petto mio, e spira tue Sí come quando Marsïa traesti De lavagina de le membra sue. Bản dịch tiếng Pháp : Entre dans ma poitrine, et souffle, toi, Comme quand tu as tiré Marsyas Hors de la gaine de ses membres. Điển tích thần Apollon thách thần dương nhân Marsyas thi âm nhạc, Apollon đã thắng và lột da thần dương nhân (thần nửa người nửa dê). Dante đảo ngược câu, lột thần dương nhân ra khỏi da của hắn. Lột da là môt hình phạt man rợ thời Trung Cổ ở Tây Phương, sánh với hình phạt lăng trì, lóc từng miếng thịt, Kiều đã cho xử mụ Tú Bà theo lời thề thốt của mụ. Ai ai thấy cũng hồn kinh phách rời. Vua Philippe le Bel tại Pháp đã từng xử hai kẻ ngoại tình với hai nàng dâu của vua bằng hình phạt lột da sống, lột từng miếng cho đến khi nạn nhân chết. Ngày nay với kỷ thật plas-tic áp vào da, một nhà giải phẩu Đức đã lột nguyên bộ da người nguyên vẹn nặng 2k500, cho thấy toàn bộ các bắp thịt người chết không da. Cuộc triễn lãm khoảng 50 xác người này bị cấm tại Pháp vì lý do đạo đức ngành Y khoa, nhưng được triễn lãm nhiều nơi trên thế giới, tôi đã xem cuộc triễn lãm này tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ năm 2007. Nếu không thấy cuộc triễn lãm này một xác người plas-tic hóa chỉ thấy bắp thịt vác trên vai bộ da của mình, chắc tôi không tưởng tượng được chuyện Apollon lột da thần dương nhân Marsyas. Và tôi hiểu GS Nguyễn Văn Hoàn dịch thành : Apollon hạ Mácsia làm văng bao tay của hắn. Bản dịch GS Nguyễn Văn Hoàn có lẽ vì do quá tôn trọng sự chính xác từng chữ, nên tác phẩm chuyển ra Việt Ngữ mất đi chất thơ, tiếc là GS Hoàn không là một nhà thơ, để chuyển một tác phẩm thơ ra thơ, để người đọc có thể cảm nhận từ thi ca Ý ra thi ca Việt Nam. Có lẽ tôi đòi hỏi hơi quá đáng . Thứ hai là chuyển tên từ tiếng Ý, ví dụ Virgilo ra tên phiên âm Viếcgilô, người đọc vẫn thấy còn xa lạ, tôi thiên về cách phiên âm của các cụ ta đầu thế kỷ 20 : Hán Việt hóa các tên ngoại quốc, đồng thời chú thích cho người đọc biết là ai. Manon Lescot thành Mai Nương Lệ Cốt, Ulysse tôi chuyển thành Uy Lĩnh. Virgilo tôi chuyển thành Việt Sinh. Dante thành Đăng Tử. CUỘC ĐỜI CỦA DANTE Dante sinh năm 1265 tại Firenze (Florence), miền trung nước Ý. Ở thời Dante trên bán đảo Ý, chưa có một quốc gia Ý thống nhất như ngày nay, trái lại có hàng chục tiểu vương quốc và công quốc thành phố tự trị. Phía bắc Firenze là công quốc Milano, phía Đông là Cộng Hòa Venezia quê hương của Marco Polo mà năm 1271, ông du hành sang tận Trung Quốc, Chiêm Thành và lưu lại Bắc Kinh trong 17 năm. Phía Tây Milano là nước cộng hòa Genova quê hương của Cristoforo Colombo năm 1492 đã phát hiện ra Tân Thế giới châu Mỹ. Phía Nam là Vatican của Giáo Hoàng, Vương quốc Napoli, Vương Quốc Sicilia.. Dù có nhiều vương quốc, công quốc khác nhau nhưng bán đảo Ý vẫn là khu vực phát triễn tiên tiến nhất thời Trung Cổ, nó thừa hưởng di sản nền văn minh La Tinh và Hy Lạp thời cổ đại. Dante sớm mồ côi cha mẹ, một người hảo tâm dã dạy Dante tiếng La tinh và truyền cho Dante niềm say mê văn chương, nhất là văn chương phúng dụ, thơ ngụ ngôn lúc bấy giờ đang nở rộ ở Pháp. Thông qua tiếng La Tinh, Dante say mê thơ ca cổ đại và tôn sùng Virgilo : " Người là Thầy, là Tác giả của tôi, chính nơi Người mà tôi đã học. Phong cách thanh tao làm vinh dự thơ tôi. "( ĐN I) Dante cũng học tiếng Pháp, tiếng Provençal, đi sâu vào nghiên cứu thần học, triết học, thiên văn học và trở thành một người có kiến thức bách khoa uyên bác nhất thời đại ông. Cuộc đời thanh niên của Dante là ba niềm say mê: yêu đương, sáng tác thơ và hoạt động chính trị. Dante đi vào tình yêu và thi ca rất sớm. Mối tình đầu buổi thiếu thời Dante đã sáng tác và gom lại thành tập thơ: Cuộc đời mới (La Vita nova), đó là tập thơ tình đầu tiên của một chàng trai vừa biết yêu. Dante cũng từng tham gia hoạt động chính trị rất sớm. Quê hương Firenze ( Florence) của ông có hai phái đối địch: Phái Ghibellini muốn tìm sự ủng hộ của Hoàng đế nước Đức để thống nhất đất nước, trong khi phái Guelfi lại đặt niềm tin nơi Giáo Hoàng. Từ năm 1289 phái Guelfi hoàn toàn thắng thế nhưng rồi phái này lại chia thành hai phe: phe Đen và phe Trắng. Phe Đen muốn liên minh với Giáo Hoàng, còn phe Trắng hướng về Hoàng đế Đức. Mâu thuẩn vẫn còn nguyên, và cuộc đấu tranh lại tiếp diễn ác liệt. Dante đứng về phái Guelfi và từng hai lần đại diện phái mình đi thương thuyết. Năm 1300 ông được bầu vào Hội đồng Thị chính Firenze. Sau sự chia rẽ của phái Guelfi, ông lại đứng về phe Trắng, kiên quyết chống lại đường lối dựa vào Giáo Hoàng. Giáo Hoàng cầu viện Pháp, Charles de Valois. Năm 1301 quân Pháp tiến vào Frirenze, phe Đen lưu vong trở về, tổ chức đàn áp phục thù. Dante bị vu khống. Hai lần bị xét xử. Lần thứ hai bị kết án thiêu sống trên giàn hỏa, khiến ông phải rời bỏ quê hương, bắt đầu cuộc sống lưu vong, mai danh ẩn tích, nay đây mai đó. Niềm hy vọng trở về quê hương lần cuối cũng tan biến dần vì hai lần tên ông bị xóa khỏi danh sách ân xá. Dante mất năm 1321 tại Ravenna, một thành phố nằm bờ biển đông bắc Firenze. Năm 1519 Viện Hàn Lâm Firenze kiến nghị với Giáo Hoàng tha thiết xin chuyển phần mộ nhà thơ về quê hương, nhưng Ravenna kiên quyết chối từ. Cuối cùng Firenze tự bằng lòng với việc xây ngôi mộ giả của Dante bên cạnh các mộ thật các danh nhân Michel Angelo (1475-1564), Galileo Galiei (1564-1642).. trong nhà thờ Santa Croce, một điện Panthéon của Ý ở trung tâm thành phố Firenze. Ở Việt Nam tên tác phẩm của Dante từng được dịch dựa vào tên tiếng Pháp La Divine Comédìe nên dịch thành Hài Kịch Thần Thánh, hay Tấn hài kịch tuyệt diệu. Nhưng tác phẩm nguyên thủy của Dante bản cổ nhất chép sau ngày mất nhà thơ 15 năm chỉ ghi chú bằng tiếng Ý: Commedia hay bằng tiếng La Tinh Comoedia. Thuật ngữ này không có nghĩa là một thể loại văn học gây cười , hài kịch đối với bi kịch theo thuật ngữ ngày nay mà là ở vị trí trung gian giữa phong cách cao sang và phong cách bình dân. Thuật ngữ này cũng là tên gọi loại văn "mở đầu nặng nể " và "kết thúc có hậu ". Có thể dịch tiếng Việt là Những khúc ca thần diệu, dịch ngắn gọn là Thần Khúc. Các bản dịch Trung Quốc đã dùng là Thần Khúc. Năm 1979, qua tư lìệu tiếng Pháp do GS Nguyễn Văn Hoàn cung cấp, Giáo sư Lê Trí Viễn và nhà thơ Khương Hữu Dụng đã tuyển dịch 30 ca khúc trong 100 ca khúc Thần Khúc. Nhà xuất bản Văn Học Hà Nội. dựa theo bản tiếng Pháp La Divine Comédie do Henri Longnon dịch, nhà xuất bản Garnier Frères. Paris 1962. Phần dịch này được Gs Nguyễn Văn Hoàn dùng lại và bổ túc, hiệu đính và dịch toàn bộ 100 ca khúc của Thần Khúc. TÓM LƯỢC THẦN KHÚC Thần Khúc kể lại cuộc du hành kỳ lạ của Dante sang thế giới bên kia - thế giới của người đã chết. Nhà thơ Virgilie được Béatrice, người yêu thiếu thời của Dante phái tới làm người hướng dẫn Dante đi tham quan Địa ngục và một phần Tĩnh thổ. Đến đây Virgilio vì chưa chịu phép rửa tội đạo Thiên Chúa nên không được phép đi tiếp, Béatrice xuất hiện và hướng dẫn Dante đi xem Thiên đường. Trước Dante, Homère đã tả cảnh Ulysse xuống Địa ngục nhờ tiên tri Tirésias chỉ dẫn gặp mẹ, và gặp tất cả các nhân vật lịch sử, các giai nhân danh tiếng. Nhưng cảnh thiên đường của Homère mà Ulysse trải qua thật đặc biệt. Bảy năm sống trong Thiên đường của tiên nữ Calypso, Ulysse được tiên nữ cứu sống chết đuối trên biển và cầu khẩn làm chồng, được hầu hạ cung phụng đủ điều, ăn ngon, mặc đẹp. Được tình yêu một nàng tiên tóc vàng đẹp tuyệt trần, và còn được Calypso hứa cho tuổi thanh xuân bất tử. Ulysse từ một anh hùng đầy mưu kế, đầy chiến công anh dũng thành Troie bỗng trở nên, một món đồ chơi trong tay tiên nữ Calypso, chỉ sống hưởng thụ và thỏa mãn thân xác cho tiên nữ, Ulysse trở nên lại buồn chán trong thiên đường Calypso, chiều chiều ra bờ biển ngồi khóc, ngóng về quê hương nhớ vợ, nhớ con. Khi được Thiên đình Zeus và Thần nữ Athéné và các thần hội họp buộc Calypso phải trả người tình tù. Ulysse hăm hở đóng bè về quê hương, dù phải vượt qua bao sóng gió biển cả, dù cho Calypso có khuyên răn, ngăn cản và cho biết những khó khăn. Trở về quê hương lại phải chiến đấu với hàng trăm kẻ cầu hôn, đang chực chiếm ngôi, dành người vợ Pénélope, trêu chọc, ngược đãi con trai Télémaque. Cuối cùng Ulysse đã chiến thắng giết trăm kẻ cầu hôn, thần Hermès dẫn hồn bọn cầu hôn xuống địa ngục, gặp hai viên Phán Quan mới là Vua Agamemnon và Phán Quan cũ là Achille. Linh hồn bọn cầu hôn kiện Ulysse, nhưng Phán Quan xử phần thắng về Ulysse và ca ngợi Pénélope trung trinh. Ở trần gian, thân nhân bọn cầu hôn nổi loạn nhưng thần nữ Athéné can thiệp, Ulysse lại sống hoà bình với toàn dân Ithaque bên người vợ trung trinh Pénélope và con trai Télémaque.. Ulysse đã từ chối cuộc sống bất tử tuổi thanh xuân nơi thiên đường Calypso, để chọn lựa cuộc sống ngắn ngủi trên trần gian đầy khó khăn nguy hiểm. Trong tác phẩm Enéide của Virgilio(Virgile) cũng có đề cập đến thiên đường, địa ngục. Trong văn học cổ Việt Nam cũng có chuyện Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Dương Từ - Hà Mậu.. đề cập đến. Nguyễn Du cũng viết Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh, rồi đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn trong so sánh giữa Thần Khúc của Dante và Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh. Nhưng tưởng tượng của Dante thiết kế cảnh Thiên đường, Địa ngục thật rộng lớn đa dạng và sinh động. Dante trở thành một phán quan, một Diêm Vương cho các nhân vật đối lập của mình xuống địa ngục, kể cả Đức Giáo Hoàng và cho những người mình liên kết chính trị, mình kính mến lên Thiên Đường. Tác phẩm của Dante gồm 100 ca khúc: gồm Địa ngục, Tĩnh thổ, Thiên đường, mỗi phần gồm 33 ca khúc, cộng thêm một ca khúc mở đầu. Toàn tác phẩm theo thể thơ Terzina, cứ mỗi khổ thơ 3 cấu được móc nối với nhau bằng hệ thống vần ABA, BCA,CDC, DED.. Vai trò quan trọng con số 3 trong Thần Khúc, từ con số 3, có bội số là 9. Trong Cuộc đời mới Dante gặp người yêu Béatrice lần đầu hai người đều lên 9, gặp lần thứ hai 9 năm sau, đúng 9 giờ sáng, lúc cả hai tròn đôi 9. Trong Thần Khúc Dante cho Béatrice xuất hiện lại ở khúc 30 phần Tĩnh thổ, lại là khúc 63 toàn tác phẩm.. Tóm lại Dante đã xử dụng tiểu xảo số 3 để sắp xếp quan niệm giáo lý ba ngôi của đạo Thiên Chúa, một con số hoàn thiện, hoàn mỹ. Thần Khúc có nhiều ý nghĩa tượng trưng: Khu rừng rậm tượng trưng cho cuộc đường đời đầy bất trắc: ba con thú là ba thói hư tật xấu con người: Dâm đãng, Kiêu căng và Gian lận. Béatrce, người yêu của Dante thời thơ ấu tượng trưng cho sự sáng suốt của thượng giới, có thể chi phối sự sáng suốt của hạ giới. Virgilio, nhà thơ La Mã, Dante kính phục là bậc thầy của thi ca mình, tượng trưng cho sự sáng suốt của trần thế của triết học, khoa học... Những hình phạt Địa ngục đều mang những biểu tượng: những tên bạo chúa lội bì bõm trong biển máu sôi sùng sục, những tên cho vay nặng phải mang ở cổ những túi tiền nặng trĩu, những kẻ đam mê sắc dục bị cuốn quay cuồng trong gió lốc, những tiên tri khoắc lác là biết mọi chuyện tương lai thì đầu bị bẻ ngoặt về phía sau.. Trong Thần Khúc có những trang xúc động kể lại mối tình say đắm giữa nàng Francesca da Rimini và ngưòi em chồng Paolo, hoặc cảnh Bá tước Ugolomo bị giam trong tháp tù tận mắt chứng kiuến những đứa con mình lần lượt chết đói. Hoặc cảnh bi hùng của đoàn Ulysse trong chuyến đi biển cuối cùng. Thần Khúc còn là bức tranh hiện thực của xã hội Ý thời Dante. Vị quan toà Dante mở phiên toà xét xử các tội nhân chỉ vì mục đích, muốn uốn nắn, cải hóa con người, nhằm hoàn thiện thiên đường nơi trần thế. Các tội nhân bị xét xử không phải vì tội tổ tông vu vơ nào mà chính vì tội ác do chính mình gây ra, bị dân chúng và lịch sử lên án. Dante viết: Tôi thấy từng lũ âm hồn trần truồng, Tất cả đều khóc lóc cực thảm thương, Và hình như hình phạt khác nhau. Có những người nằm dài trên mặt đất, Những kẻ khác thì ngồi thu mình lại, Một số khác cứ phải đi lại liên hồi. (Khúc XIV. Địa Ngục) Ta không khỏi liên tưởng đến cảnh Nguyễn Du tả trong Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh; Cảnh lang thang cực khổ các cô hồn: Mấy thu chịu nhiều bề thảm thiết. Dạ héo khô gió rét căm căm, Dãi dầu biết mấy trăm năm, Khóc than dưới đất ăn nằm trong sương. Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn, Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra. Lôi thôi ẳm trẻ dắt già, Có khôn thiêng hỡi lại mà chứng minh.(câu 149 -156) Ta thử đọc cảnh âm hồn bọn cầu hôn trong Odyssée của Homère được thần Hermes dẫn về cõi âm, bản dịch thơ lục bát của Nhất Uyên. Nói về đường xuống cõi âm Sứ thần Mai Hạc dẫn hồn cầu hôn. Phép mầu thần cõi Chi Liên. Đũa vàng huyền diệu ru hồn cầm tay, Khép mi, thoát dẫn hồn đi, Lìa thân về cõi âm ty nghìn trùng. Đũa thần dẫn lũ âm hồn, Đêm sương tăm tối lạnh lùng tiếng chim, Từ muôn lỗ tối hang đen, Cánh dơi thấp thoáng bóng đêm chập chàng. Hồn theo dơi lạnh non ngàn, Gieo chùm đá biếc, kêu than đường dài,. Thoáng sao băng vượt trời mây, Qua truông rừng thẳm, vượt bay sóng ngàn. Vượt qua sóng cả Đại Dương, Vượt đá Liêu Cát, Cửa Thần Thái Ô, Vượt qua Suối Mộng thuyền đò, Đến đồng lan dại, trắng bờ lau thưa. Nơi đây tạm nghỉ hồn vừa, Mới lìa trần thế đợi chờ Phán Quan. Khúc XXV Nơi Địa Ngục - Hoà Bình. Câu 11547 câu 11566. Khác với Homère : Truyện Thơ Odyssée có ba cõi, cõi thần, cõi người, cõi địa ngục, nhân vật Ulysse đi từ cõi thần tiên, vào cõi địa ngục rồi lại trở về cõi người, giữa ba cõi giao lưu như ngôi nhà ba tầng tâm thức con người. Dante lấy cảm hứng từ thơ Homère đưa mình đi từ cõi địa ngục, lên cõi tĩnh thổ rồi lên cõi Thiên Đàng ở trên các vì sao. Dante tự mình làm Phán Quan, cho các nhân vật chính trị đối lập mình xuống địa ngục, và bạn đồng minh của mình lên Thiên đàng. Nguyễn Du viết Truyện Kiều chỉ viết về cõi con người, phần liên hệ với người chết Nguyễn Du cho rằng: Chẳng qua đồng cốt quàn xiêng. Người đâu mà lại thầy trên cõi đời. Dù cho người lên đồng nói có đúng sự thật không tìm thấy Kiều dưới địa ngục. Nguyễn Du dành phần viết về cõi âm cho một bài văn tế riêng: Văn tế Thập Loại Chúng Sinh. Một bài Văn tế : kính nhi viễn chi. Quỷ thần nên kính và đứng tránh xa. Nguyễn Du tả mười loại âm hồn: Vua chúa bị giết, Quý nữ liều thân, Tể thần thất thế, Đại tướng bại trận, Ham giàu chết đường, Ham danh chết quán, Buôn bán chết xa, Binh lính chết trận,, Kỷ nữ cô đơn, Chết bởi nghèo nàn tai họa. Đó là những người , thân thuộc, bạn bè, anh em.. Nguyễn Du gặp trên cõi đời, chết không ai cúng kiến, hồn lang thang vất vưỡng, phải cầu Phật độ để linh hồn được siêu thoát trong vòng luân hồi. Nguyễn Du không viết một bài văn tế nào cho chúa Trịnh Tông, cho vua Lê Chiêu Thống, cho vua Cảnh Thịnh, cho tướng Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh, cho Đặng Thị Huệ, cho anh Nguyễn Khản, anh Nguyễn Điều, anh Nguyễn Nể, cho các con chết yểu từ Nguyễn Nhất đến Nguyễn Tứ, cho vợ Đoàn Nguyễn thị Huệ, cho từng giai nhân Nguyễn Du gặp trên đường đời.. nhưng Nguyễn Du viết một bài văn tế chung cho tất cả mọi người. Nguyễn Du không tả cảnh địa ngục dù truyện kể, truyền thống nhân gian Việt Nam cũng có chuyện bỏ đồng tiền vào miệng người chết để đi đò vào cõi Địa Ngục như Hy Lạp, ăn cháu lú để quên kiếp trần gian đầu thai kiếp khác. Có Ngưu đầu, Mã diện dẫn vào chầu Diêm Vương, người bị xử tội bỏ vào vạc dầu, hay thú dữ cắn xé.. rồi bị lột da, đắp vào da mới cho đi đầu thai.. Tại chùa Ngọc Hoàng, Sài Gon, năm 2011 tôi có dịp được xem cảnh địa ngục được chạm khắc với nhiều chi tiết thú vị. Cũng như Homère, Dante coi trọng hạnh phúc trần thế, thừa nhận kiếp nhân sinh hiện hữu trước mắt và hầu như không hề ảo tưởng về thế giới mai sau. Dante cũng không dấu diếm thái độ chính trị khi ném các đối thủ phái Ghibellini và các vị Giáo Hoàng, kể cả Giáo Hoàng Bonifazio đang trị vì xuống tầng Địa ngục sâu nhất (Khúc XIX), trong lúc đó ông lại dành cho đồng minh chính trị mình Hoàng đế Đức Arrigo VII, người mà ông đặt hy vọng vào việc hỗ trợ thống nhất nước Ý, một chỗ vinh dự trên Thiên đường. Nhà nghiên cứu văn học Francesco de Sanctis (1817-1883)trong Storia della Letteratura Italiana (Lịch sử văn học Italia) Nxb Feltrinelli, Milanno, 1964 tập I tr 169 đã viết : " Thần Khúc là thời Trung Cổ được biểu hiện trong nghệ thuật. Những điều trông thấy và phúng dụ, văn chính luận và truyền thuyết, sử biên niên, truyện kể, tụng thi, thánh ca, chủ nghĩa thần bí và kinh viện học, tất cả những hình thái văn chương và toàn bộ văn hóa của thời đại, đã được biểu hiện và tái sinh ở đây, trong cái bí ẩn vĩ đại của một tâm hồn và của cả nhân loại, một tác phẩm tầm cở thế giới, ở đó phản chiếu mọi dân tộc, mọi thế kỷ, được gọi là thời Trung Cổ." Tác phẩm Thần Khúc của Dante được tôn sùng là Kinh Thánh của thời Trung Cổ, Dante là Homère của nước Ý. Dante được xem là người cha của tiếng Ý và của Văn học Ý. QUYỂN I : ĐỊA NGỤC Dante thấy mình lạc trong rừng tối. Ba con dã thú chặn đường. Virgilo xuất hiện, dẫn Dante du hành sang thế giới bên kia.(Khúc I) Dante e ngại trước cuộc du hành. Virgilo khuyến khích Dante bằng cách tiết lộ sự ủy thác của Béatrice. Dante được trấn tỉnh.(Khúc II) Cửa vào Địa ngục. Nhóm tội đồ thứ nhất: Bọn bạc nhược. Dòng sông Akéronté và lão lái đò Caron.(Khúc III) Tầng thứ nhất của Địa ngục: Minh phủ dành riêng cho các vĩ nhân chưa qua phép rửa tội: Homère, Horace, Ovide, Lucano. Virgilo được tôn vinh là người thứ năm và Dante là người thứ sáu.(Khúc IV) Tầng Địa ngục thứ hai. Những người dâm đãng. Mối tình bi thảm của Francesca da Rimini.(Khúc V) Tầng Địa ngục thứ ba : Siasco, âm hồn quê ở Frirenze, tiên đoán về diễn tiến tương lai của thành phố mình.(Khúc VI) Tầng Địa ngục thứ tư . Quái vật Pluto. Những kẻ hà tiện, những kẻ hoang phí, những kẻ cuồng nộ.(Khúc VII). Tầng Địa ngục thứ năm : Filippo Argenti, một người Frirenze giàu có thuộc phái Đen, bị trừng phạt. Bọn quỷ sứ ngăn không cho Virgilo và Dante vào thành Dite(Khúc VIII) Tầng Địa ngục thứ sáu. Nhờ sự can thiệp của Thiên đình. Virgilo và Dante được vào thành Dite, nơi giam những người dị giáo.(Khúc IX). Dante gặp kẻ thù chính trị của phe mình Farinnata, thủ lĩnh của phe Ghibellini và gặp người bạn cũ thân thiết Guido.(Khúc X). Tầng địa ngục thứ bảy. Trật tự giam giữ dưới Địa ngục. Ngục thứ nhất: Tội bạo hành và tội gian lận.(Khúc I ). Con quái vật Minotauro(Đầu bò tót, thân người). Dòng sông máu và những kẻ bạo hành. Thần nhân mã Nesxo dẫn đường cho Virgilo và Dante.(Khúc XI I). . Ngục thứ hai. Những người tự sát biến thành cây. Số phận Frirenze.(Khúc XIII I. Ngục thứ ba. Sa mạc cát dưới trận mưa lửa. Dòng sông máu. Nguồn gốc các sông dưới đí ngục (Khúc XIV) Dante gặp lại và trò chuyện với thầy học Brunetto Latini (Khúc XV). Dante trò chuyện với ba âm hồn Frirenze (Khúc XVI). Dante đến xem bọn cho vay nặng lãi. Virgilo và Dante cưỡi trên lưng quái vật Gìrong để đi xuống vực sâu (Khúc XVII) Tầng địa ngục thứ tám : Địa ngục thứ nhất. Những kẻ quyến rũ, những tên ma cô đi thành hai toán. Ngục thứ hai : Bọn xu nịnh ngập trong hố phân (Khúc XVIII).Ngục thứ ba: Nơi Giáo Hoàng Nicolas III và bọn buôn thần bán thánh bị hành tội. (Khúc XIX) Ngục thứ tư. Những thầy bói tiên tri. Virgilo nói về nguồn gốc thành phố Mantova.(Khúc XX) Ngục thứ năm : Bọn tội đồ với thùng nhựa sôi. Virgilo thương lượng với con quỷ có đuôi. Dante và Virgilo được quỷ sứ hộ tống.(Khúc XXI) Ngục thứ năm : Bọn ăn hối lộ và bọn cố ý làm sai chức trách. Lũ quỷ sứ tức giận vì bị đánh lừa. (Khúc XXII) Ngục thứ sáu: Bọn đạo đức giả mặc áo chì nặng chĩu (Khúc XXIII).. Ngục thứ bảy. Bọn ăn trộm đồ thờ Chúa bị rắn cắn, cháy thành tro, rồi lấy lại hình người. Vanni Fucci bộc lộ tội trạng của mình (Khúc XXIV). Những sự hổn xược của Vanni Fucci, Cacao Sự biến hóa khủng kiếp của hai tên kẻ cắp. (Khúc XXV). Ngục thứ tám : Những âm hồn bị bọc trong lửa. Ulysse kể lại chuyến đi biển cuối cùng.(Khúc XXVI) Bọn cố vấn gian giáo. Guy Montefrentero và vai trò của Bonifascio VIII (Khúc XXVII). Ngục thứ chín: Bọn chia rẽ và bọn ly gián tôn giáo. Cuộc gặp gỡ Maometto (Mahomet) và Bertram del Bornio.(Khúc XXVIII) Ngục thứ mười. Bọn làm giả kim, bọn dối trá (Khúc XXIX) Ngục thứ mười: Những kẻ gian dối giả mạo: Gianni Schicchi, Mirra, Adam Thợ cả đúc tiền giả.(Khúc XXX). Tầng Địa Ngục thứ chín. Những kẻ khổng lồ quanh hố ngục. Khổng lồ Antéo đặt Virgilo và Dante xuống đáy ngục sâu (Khúc XXXI). Vùng ngục thứ nhất (Caina) Những bá tước ở Mangova. Vùng ngục thứ hai : Bocca Abbatti Ganéloné. (Khúc XXXII). Vùng ngục thứ ba: Bá tước Ugolono kể về cái chết của ông và con cháu. Dante nhục mạ Pida va Genova.(Khúc XXXIII) Ngục thứ tư Lucifero và ba tên tội phạm lớn nhất của Giáo Hội: Giuda, Bruto, Cassio . Hai nhà thơ trở về trần thế. QUYỂN II. TĨNH THỔ Dante ra khỏi địa ngục và ngắm các vì sao. Bãi biển của Tĩnh Thổ. Catoné, thiên thần của Tĩnh Thổ xuất hiện. Virgilo trò chuyện với Catoné (Khúc I). Các thiên thần chỡ thuyền xuất hiện. Dante gặp lại bạn cũ nhạc sĩ Caselle và trò chuyện thân mật (Khúc II) Gặp gỡ một đoàn âm hồn, Trò chuyện với linh hồn vua Manfredi.(Khúc III). Tiền Tĩnh Thổ. Tầng thứ nhất của ngọn núi, Mặt trời ở bán cầu Nam. Dante gặp người quen Belacqua. (Khúc IV). Tầng thứ hai của ngọn núi. Gặp gỡ và trò chuyện với những âm hồn bị chết vì bạo lực: Iacopo del Cassero, Bonconte da Montefeltro và Pia. (Khúc V). Tầng núi thứ hai. Bàn về hiệu quả lời cầu nguyện, Virgilo gặp Sordello, chỉ trích nước Ý, Đế chế, Giáo Hoàng và Frirenze. (Khúc VI) Sordello dẫn hai nhà thơ đến một thung lũng nhỏ xinh đẹp và chỉ cho thấy một số âm hồn khác.(Khúc VII). Trong thung lũng cầu kinh buổi chiều, có con rắn và hai thiên thần bảo vệ thung lũng, Dante trò chuyện với Nino Viscoti và Currado Malaspina.(Khúc VIII). Dante ngủ và mơ. Tỉnh giấc ở gần Tĩnh Thổ. Thiên thần gác cổng mở cửa (Khúc IX) Những tranh tượng khắc trên vách đá: Maria, David, Traiano chỉ trích tật kiêu căng của con người.(Khúc X) Đoàn âm hồn vừa đi vừa cầu nguyện. Những kẻ kiêu ngạo: Omberto Aldobrandeschi, Odersrisi da Gubbio và Provenzanoo Savani. (Khúc XI) Tranh khắc về những kẻ kiêu ngạo. Thiên thần của đức tính khiêm nhường. Đi lên tầng thứ hai (Khúc XII) Quang cảnh tầng núi thứ hai. Virgilo ca ngợi mặt trời. Lời nói các thiên thần bay trên không trung. Chuyện kể của Sapia, một âm hồn ở Siena. (Khúc XIII). Những kẻ đố kỵ Guydo del Duca và Riniéri da Canboli. Sự suy thoái của thung lũng Arno và Romanha. Những trường hợp đố kỵ bị trừng phạt. Những tiếng nói huyền bí trên không trung. (Khúc XIV). Rời tầng núi thứ hai lên tầng thứ ba. Thiên thần khoan dung xuất hiện Virgilo giảng giải một câu khó hiểu của Guydo del Duca và sự phân chia của cải ở thế gian và trên trời. Tầng núi thứ ba. Những kẻ giận dữ. Những tấm gương về sự khoan dung.(Khúc XV) Trong làn khói đen: Gặp Marco Lambardo. Nghi hoặc của Dante và Marco giảng giải về tự do ý chí. Những nguyên nhân của sự biến chất.(Khúc XVI) Tầng núi thứ ba lên tầng thứ tư: Những dẫn chứng cuối cùng về sự giận giữ tội lỗi. Virgilo trình bày lý thuyết về tình yêu, được xem là nguồn gốc mọi đức hạnh và tội lỗi.(Khúc XVII) Tầng núi thứ tư: Những kẻ lười biếng, Virgilo nói tiếp về tình yêu, tự do ý chí và trách nhiệm của con người. Câu chuyện của Tu viện trưởng Thánh Déno.(Khúc XVIII). Giấc mơ tượng trưng của Dante và sự giải thích của Virgilo. Tầng núi thứ năm: Những kẻ biển lận và những kẻ hoang phí. Dante nói chuyện với Giáo Hoàng Adreriano V.(Khúc XIX) Những kẻ biển lận bị trừng phạt : Hugue Capet và dòng họ vua Pháp. Động đất, bài thánh ca Vinh quang thay Chúa Trời.(Khúc XX) Linh hồn Stazio giải thích về sự rung chuyển của trái đất. và sự giải thoát các linh hồn trong sạch. Virgilo và Stazio nhận ra nhau.(Khúc XXI) Tầng thứ năm lên tầng thứ sáu. Câu chuyện cuộc đời của Stazio. Các nhà thơ cổ đại. Tầng núi thứ sáu: cây cám dỗ những kẻ tham ăn.(Khúc XXII). Những kẻ tham ăn. Dante gặp bạn cũ Forese. Sự suy thoái đạo đức các phu nhân thành Frirenze.(XXIII) Bonagiunta ở Lucca Văn phong mới dịu dàng thi phái của Dante.. Câu chuyện Forese và cái chết của Corso Donati. Cây cám dỗ thứ hai.(khúc XXIV). Tầng thứ sáu lên tầng thứ bảy Bàn về sự hình thành thân xác và linh hồn có lý trí của con người. Sự hoạt động của linh hồn sau khi chết. Tầng núi thứ bảy: Những kẻ dâm đãng và phạm tội về xác thịt. (Khúc XXV). Những người vi phạm quy luật tự nhiên. Nhà thơ Guydo Guinidenli. Nhà thơ Arno Danien. (Khúc XXVI). Thiên thần của sự trong trắng. Dante trước bức tường lửa. Thiên thần của thiên đường trên mặt đất. Giấc mơ của Dante: Lia và Raken. Ở ngưỡng cửa thiên đường Virgilo nói lời từ biệt Dante.(Khúc XXVII). Nữ thiên thần Matenda giảng giải cho Dante về sông Lété và mọi hiện tượng và bản chất khác thường của Thiên đường mặt đất. (Khúc XXVIII) Dante và Matenda đi dọc sông Lété. Đám rước thần bí : 7 cây đèn nến, 24 ông già, 4 con vật có cánh. Cổ xe do sư tử, chim ưng kéo. Bảy ông già cuối cùng (Khúc XXIX). Béatrice xuất hiện. Virgilo biến mất. Những lời trách móc của Bétrice. Lòng trắc ẩn của các thiên thần (Khúc XXX). Béatrice tiếp tục trách móc. Dante thú tội. Mantenda đem nhúng chàng vào dòng sông Lété và chàng được dẫn đến trình diện Béatrice.(Khúc XXXI). Đám rước tiếp tục, giấc ngủ của Dante. Sứ mệnh của Dante với những người sống. Những hiện tượng tượng trưng : Con đại bàng, con cáo, con rồng. Biến đổi của cổ xe. Cô gái điếm và anh khổng lồ.(Khúc XXXII). Những lời báo trước của Béatrice. Matenda dẫn Dante đi uống nước sông Ennoé. Dante sẳn sàng đi lên các vì sao. QUYỂN III. THIÊN ĐƯỜNG Dante lên Thiên Đướng., Dante say mê và thán phục. Béatrice giải thích cho Dante vê trật tự và sự chuyển vần của vũ trụ. (Khúc I). Vùng trời thứ nhất: Vùng trời của Mặt Trăng. Lời báo trước với độc giả. Dante đi vào diệu kỳ trong thiên thể đó. Những vết đen trên mặt trăng. Sự lầm lẫn của Dante và giải thích của Béatrice (Khúc II). Những linh hồn không hoàn thành lời nguyện của mình. Picarda Donati. Hoàng Hậu Costanza vĩ đại.(Khúc III). Béatrice giải đáp những thắc mắc của Dante. Đâu là ngôi vị của những người chân phúc ? Công lý thần thánh được thực thi như thế nào ? Béatrice khẳng định những sai lầm của Platon : sau khi người chết linh hồn sẽ trở về các ngôi sao, mối quan hệ giữa bạo lực và ý chí .(Khúc IV) . Thực chất giá trị của một lời nguyền, Điều kiện và giới hạn trong việc đổi một lời nguyền. Vùng trời thứ hai : vùng trời của sao Thủy. Những người chân phúc đón mừng Dante. (Khúc V).Linh hồn của Hoàng Đế Giustiniano I kể cho Dante những chiến công của con Đại bàng La Mã, từ Énée dến Carlos Manho. Những sai lầm của Guenfi và Ghibenlini chống lại đế quốc. Ca ngợi Roméo di Villannova.(Khúc VI) Béatrice giải đáp những nghi hoặc mới của Dante, sự trả thù về cái chết của Kito, sự hóa thân của chúa, sự biến chất của các yếu tố và sự hồi sinh của thể xác con người. (Khúc VII). Vùng trời thứ ba ; Vùng trởi của Sao Kim. Linh hồn Carlos Maxtendo. Vua Hungarie trò chuyện với Dante. Ông ta nhận xét về dòng họ mình. Và lý giải vì sao mà con cháu lại có tính cách khác vời ông cha mình.(Khúc VIII ) Những lời tiết lộ của Carlos Martello và Cunizza da Romano. Nhà thơ tình yêu Fonco di Macsighia. Vinh dự của Raab. Lời lên án Giáo Hoàng.(Khúc IX) Vùng trời thứ tư : vùng của Mặt trời. Các thiên thần họp thành vòng nhảy quanh Dante và Béatrice. Thánh Thomas d� Aquino giới thiệu với Dante từng thiên thần có mặt. (Khúc X). Thánh Thomas đoán biết những băn khoăn của Dante liền giải thích. Thánh Thomas ca ngợi Thánh Francoise D�Assisi và chê trách sự thoái hóa của các tu sĩ dòng Dominique.(Khúc XI) Thánh Bonaventura ca ngợi thánh Dominico và chê trách sự sa sút của các tu sĩ dòng Franciscain. Thánh Bonaventura giới thiệu 11 người bạn mình với Dante (Khúc XII) Thánh Thomas nói với Dante về sự hiểu biết tương đối của Salomoné. Nguyên nhân sự khôn,g bằng nhau giữa các linh hồn (Khúc XIII) Salomon giải đáp những thắc mắc của Dante. Xuất hiện vòng tròn nhảy múa thứ ba. Dante lên Vùng trới thứ năm, vùng trời của sao Hỏa. Chúa Kitô phóng ra những tia sáng chói lọi. Những bài hát ca ngợi Chúa.(Khúc XIV). Dante gặp vị thủy tổ ba đời là Catsiaguida. Ông này kể lại đời mình và ca ngợi thành Frirenze ngày xưa. (Khúc XV) Dante hài lòng về dòng dõi quý tộc của gia đình mình ; Catsiaguida nói về sự thịnh suy các dòng họ Frirenze.(Khúc XVI). Dante muốn biết tương lai đời mình. Tiết lộ của Catsiaguida Dante sẽ bị đày biệt xứ.(XVII) Nhắc lại một số anh hùng Do Thái, các hiệp sĩ của cuộc Thập tự chinh và của Anh hùng ca. Vùng trời thứ sáu, Vùng trời của Sao Mộc. Các thiên thần và các vị hằng phúc vừa hát vừa xếp chữ, ca ngợi một công lý.(Khúc XVIII ) Đại bàng nói về công lý thần thánh. Tính chất xấu xa của một số vua Thiên Chúa Giáo Âu Châu. (Khúc XIX) Đại bàng nói tiếp. Những linh hồn nổi tiếng hợp thành con mắt của Đại bàng. Hai người không có đạo ở trên Thiên Đường : Riféo và Traiano (Khúc XX) Vùng trời thứ bảy, Vùng trời của Sao Thổ. Béatrice không cười nữa, các vị chân phúc không hát nữa. Chiếc cầu vàng. Thánh Piertro Damiano và sự phê phán các vị chăn chiên hiện đại. Bí mật của sự tiền định.(Khúc XXI) Béatrice trấn an Dante. Thánh Bénédetto nói về mình, về các giáo hữu và nguyền rủa sự hủ hóa các tu sĩ. Vùng trời thứ tám : Vùng trời các định tinh. Dante nhìn về các hành tinh và trái đất.(Khúc XXI I). Kito và Maria xuất hiện giữa những người hằng phúc, sau đó lên vùng trời thiên thanh. Maria với chiếc vương niện bằng lửa, Thánh ca ca ngợi Maria.(Khúc XXIII). Béatrice giới thiệu Dante với những người hằng phúc và đề nghị thành Pietro kiểm tra Dante về Đức tin. Thánh Pietro hài lòng về những câu trả lời của Dante. (Khúc XXIV). Thánh Giacomlo chất vấn Dante về vấn đề hy vọng. Sự xuất hiện cuả Thánh Giuovanni. Dante cố nhìn thánh và mắt bị mù tạm thời (Khúc XXV) Thánh Giovani hỏi quan niệm của Dante về lòng nhân từ. Dante lấy lại thị giác. Adamo xuất hiện và trò chuyện với Dante (Khúc XXVI). Thánh Pierro chỉ trích Giáo Hoàng Bonifascio VIII, và trao cho Dante nhiệm vụ. Dante nhìn xuống trái đất. Dante bay lên . Vùng trời thứ chín : hay vùng Động lực đầu tiên. Béatrice giải thích về vùng trời này và mối quan hệ với vùng trời khác. (Khúc XXVII) Chín vòng tròn lửa quay quanh một Điểm Sáng Cố Định và Chói Loà (Chúa Trời) Béatrice giải thích sự tương ứng giữa chín vòng tròn lửa này với chín vòng trời. Tôn ty trật tự giữa các thiên thần. (Khúc XXVIII). Béatrice nói về sự sáng tạo và lịch sử các thiên thần. Các thiên thần phản nghịch và các thiên thần trung thành. Khả năng của các thiên thần. Chống lại các ý tường ngông cuồng về thần học và sự khoan dung. Số lượng thiên thần và sự vĩ đại của Chúa Trời.(Khúc XXIX) Vùng trời thứ mười : Vùng Thiên Thanh : Thiên Đình, Thiên thần và những người hằng phúc. Dòng sông ánh sáng, những tia lửa, những bông hoa. Dante có thị lực mới, Bông hồng Thiên đường. Chiếc ngai dành cho Hoàng Đế Arrigo VII (Khúc XXX) Bông Hồng Trắng, sự kinh ngạc của Dante. Béatrice trở lại chổ của mình. Thánh Bernardo đến thay. Lời cầu khẩn của Dante với Béatrice. Đức Mẹ Đồng Trinh trong vinh quang của mình (Khúc XXXI). Sự sắp xếp chổ ngồi trong Bông Hồng. Những thiếu niên hồn nhiên, sự không ngang nhau giữa chúng trong cõi Thiên Đường. Sự ca ngợi Đức Mẹ Đồng Trinh. (Khúc XXXII). Thành Bernardo cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh chiếu cố đến Dante. Dante nhìn vào Bản Thể Vô Tận và trực cảm về sự thống nhất vũ trụ ở Chúa, về tính duy nhất của Ba Ngôi về bí Mật của sự hóa thân. Bản dịch Thần Khúc của Gs Nguyễn Văn Hoàn là một kỳ công, tôi thử góp sức thêm, thử diễn ca thành thơ lục bát, để thử Việt hóa bản dịch, tôi sẽ tiếp tục chuyển toàn bộ tác phẩm vĩ đại này ra 14266 câu thơ thành thơ lục bát, và bổ túc những điểm sơ sót, một công việc ít nhất phải mất 5 năm liên tục. THẦN KHÚC DANTÊ ALIGHIÊRI Nhất Uyên diễn ca thơ lục bát theo bản dịch GS Nguyễn Văn Hoàn QUYỂN I ĐỊA NGỤC KHÚC I Dante thấy mình lạc trong rừng tối tượng trưng cho sự lầm lạc về đạo lý và tinh thần. Ba con dã thú chặn đường: con báo, sư tử và sói cái tượng trưng cho ba đức tính: dâm dục, kiêu căng và gianb lận. Virgilo, thi hào La Mã, người thầy thi ca của Dante xuất hiện dẫn Dante du hành sang thế giới bên kia. Nữa đường đời thoáng qua nhanh, 1 Tôi thấy mình lạc rừng xanh mịt mùng. Nẽo về chính đạo mông lung, Bao điều cay đắng nói không nên lời. Rừng hoang hiểm trở núi đồi, Bao điều kinh hãi, bồi hồi xiếc bao. Chết khôn bằng, đắng cay sao ? Những điều trông thấy cùng trao tỏ bày. Kể cùng nhau mọi điều hay, Kể làm sao được vì say giấc nồng. 10 Lúc xa chính đạo mơ mòng, Thấy mình bỗng tới dưới chân ngọn đồi. Cuối vùng thung lũng bên trới, Đã từng vò xé tim tôi hãi hùng. Ngước nhìn lên mắt tôi trông, Sườn non rực rỡ ánh hồng rạng tươi. Mọi đường đi, lối tỏ soi, Nỗi niềm kinh sợ lòng tôi lắng dần. Trái tim như mặt hồ trong, Suốt đêm dao động mênh mông mệt nhoài. 20 Như người kiệt sức đi thôi, Thoát lên bờ ngóng trùng khơi chập chùng, Ngoảnh nhìn biển cả mênh mông. Hải hùng ngọn sóng cao dâng hiểm nghèo. Lòng còn run sợ biết bao, Khi nhìn lại quảng đường nào đi xa. Mấy ai từng dễ thoát qua, Sau khi yên nghỉ thân ta mệt nhoài. Như đi đường cát trắng dài, Chân phải vẫn dẽo hơn hoài chân kia. 30 Ngay trên đỉnh dốc, ô kìa, Một con báo dữ lại vừa hiện ra : Bộ lông vàng lốm đốm hoa, Trước tôi, đứng giữa lối qua, chận đường ! Tính bài quay lại nhiều phen, Bình minh vừa rạng trời lên hồng hào. Mặt trời thay bóng vì sao, Tình yêu thần thánh khơi bao tốt lành. Cho tôi hy vọng trong lòng, Với con thú có bộ lông đẹp màu. 40 Ngày mùa êm dịu giờ đầu, Không lâu chợt tới lo âu kinh hoàng ! Sư tử xuất hiện thình lình, Phía tôi chồm tới như hình tấn công, Đầu rướng cao, đói khát cuồng, Đến không gian cũng rợn cơn kinh hoàng. Lại con sói cái tiếp lên, Dáng gầy gò vẻ thèm thuồng khát khao, Làm tôi điêu đứng biết bao, Làm tôi run rẩy lao xao rụng rời. 50 Phát từ đôi mắt đỏ ngời, Chẳng còn hy vọng lên đồi đứng trông. Như kẻ mê bạc tàn canh, Hồi đen thua sạch than van kêu nài. Thú kia cũng khiến lòng tôi, Tiến công tôi phía mặt trời lùi xa. Khi tôi tuột dốc sa đà, Im lìm lặng lẽ hiện ra một người. Trong vô biên hoang vắng đời, Tôi cầu xin hãy thương tôi dù là: 60 -"Người còn sống hay hồn ma." -"Ta là người, đúng hơn là người xưa, Mẹ cha dân Lâm Bác Đa, Cả hai cùng ở Man Tô Va quê nhà. Ta sinh cuối thời Sê Da. Triều Âu Quốc chốn Rô Ma kinh thành. Thời kỳ thần thánh giả danh, Là nhà thơ đó ta từng ngợi ca Con An Chi hiếu thảo từ Troa, Ý Long kiêu dũng chói lòa lửa dâng. 70 Còn người lạc chốn đau thương, Không trèo lên núi phi thường huyền vi, Khởi nguồn cực lạc diệu kỳ ? -"Phải chăng danh Việt Sinh Thi ngài là ? Cội nguồn suối thánh sông thơ, Mặt tôi sung sướng say sưa đỏ bừng. Ngài là ánh sáng quang vinh, Ngài là thi sĩ tôi hằng kính yêu, Bao năm đèn sách bấy nhiêu, Say mê, mài miệt khiển tiêu thơ ngài, 80 Ngài là thầy dạy thơ tôi, Nơi ngài tôi học bao lời thanh tao. Vinh dự thay, phong cách nào, Cứu tôi, hiền giả thanh cao lẫy lừng. Ác thú làm tôi sợ run, Làm tôi dừng lại quay lưng trên đường." -Hãy tìm lối khác qua rừng, Nếu người muốn thoát chốn hoang dại này." Thấy tôi than khóc trả lời, Loài thú quái ác chẳng ai thoát mình. 90 Chẳng để ai sống trên đường, Tấn công cắn chết, xông lên thét gào, Bản tính độc ác biết bao, Một lòng ham muốn chẳng sao vơi dần, Ních đầy bụng, càng đói ăn, Nhiều con thú khác đã cùng kết đôi, Nhiều con đã đến để rồi, Một con thần khuyển đi đời đớn đau. Đất đai, vàng bạc chẳng cầu, Mà vì tri thức nhiệm mầu tình yêu. 100 Cho một xứ sở thanh tao, Cứu tinh nước Ý công lao khiêm nhường, Cam Ninh tuẩn nạn đồng trinh, Ô Ri, Tuấn, Ních tử thương anh hùng, Đuổi sói cái khỏi đô thành, Đem giam ngục tối, dục tình tiêu tan. Đối với người tốt nhất rằng : Theo ta về chốn vĩnh hằng an vui. Người sẽ nghe tuyệt vọng thôi, Âm hồn đau đớn chết thời thứ hai. 110 Vì hy vọng một ngày mai, Có người vẫn sống an bài lửa dâng, Sẽ được lên cõi phúc hằng, Nếu người muốn chốn thiên đàng cõi trên. Thì ta sẽ gửi người quen, Anh hồn xứng đáng khi chân giả từ. Đấng Thượng Đế ngự trên cao, Đã không muốn thấy ta vào chốn đây, Vì ta chưa thuận luật Ngài, Luật Ngài thống lĩnh cõi trời Cao Xanh. 120 Đế đô vời vợi ngai vàng, Phúc thay những kẻ Ngài ban tuyển vào. " Hướng về Thầy tôi thỉnh cầu : -" Hỡi Thi hào hãy nói câu giúp giùm, Đấng Thượng Đế tôi chưa quen, Cầu mong được thoát ngục hình nguy nan. Dẫn tôi đến cõi Thiên Đàng, Cho tôi thấy cánh cửa thần Thạch Ông. Đừng để tôi khổ vô vàn ". Nhà thơ cất bước, tôi chân theo người. 130 Chú thích : Nửa đường đời : Dante hình dung đường đời như một vòng cung, điểm cao nhất 35 tuổi. Sinh năm 1265 đến năm 1300 viết Thần Khúc tưởng tượng cuộc du hành xuống Địa Ngục. Rừng tối : Nghĩa bóng là sự lầm lạc về đạo lý và tinh thần, Điều hay : hiểu được điều họa phúc, và ý nghĩa cuộc đời nhân thế. Chân phải : quan niệm cổ xem chân trái vụng về hơn chân phải. Con báo : tượng trưng cho thói dâm đãng. Mùa Xuân : Thời Trung Cổ tin Chúa tao lập thế gian và khởi đầu mùa xuân. Con sư tử : tượng trưng sự kiêu căng. Con sói cái : tượng trưng cho tính hà tiện, bủn xỉn. Ba con thú : Báo, Sư Tử và Sói cái tượng trưng cho ba tội ác trong địa ngục của Thần Khúc. Tính buông thả tà dâm, hung ác và gian lận. Xin hãy thương tôi : Dante dùng tiếng La Tinh để nói với bóng ma : Miserere di me. Virgilo Marone Publio, tên La Tinh Publius Virgilius Maro sinh năm 70 trước CN tại Mantova, mất ở Brindisi năm 19 trước Công nguyên. Nhà thơ La Tinh tác giả thiên anh hùng ca Énéide. Kể chuyện Énée, người sống sót sau trận chiến thành Troie, dẫn dân chúng sang Ý lập thành phố Roma. Mantova(Man Tô Va) ở đông nam khu Lombardia (Lâm Bác Đa), bắc nước Ý,thủ phủ là thành phố Milanno. Giulio Cesare (Roma 100 - 44 tr CN). Lúc Virgilio sinh thì Césare 31 tuổi. Augusto (Âu Quốc). Hoàng Đế La Mã (63 tr CN - 14 tr CN) cháu ngoại Césare(Sê Da), có công lập trật tự vương quyền sau một thế kỷ nội chiến. Hào quang củ thời đại này phản ảnh trong tác phẩm của hai nhà thơ La Tinh nổi tiếng Virgilo (70 - 19 tr CN) và Orazio (65 - 8 tr CN) Người con hiếu thảo Anchise(An Chi): tức Énéa(Ê Na), thủ lĩnh Troie thành Ilion(Ý Long), anh dũng chống người Hy Lạp, sau khi Troie thất thủ Énéa chạy sang lãnh địa La Mã . Virgilo, Virgile(Việt Sinh, Việt Sinh Thi): Ở thời Trung đại được tôn sùng như một nhân vật huyền thoại, một hiền triuết, một tiên tri. Đối với Dante trong Thần Khúc còn là biểu tượng cho chân lý nơi trần thế. Cammilla, Eurialo, Turno, Niso (Cam Minh, Ô Ri, Tuấn, Ních): Tên những nhân vật trong tác phẩm của Virgilo . Dante quan niệm sự hy sinh hai phe đều cần thiết cho sự xuất hiện Đế Quốc La Mã. Chết lần thứ hai: Theo tín điều đạo Ki tô, những người đã phạm tội ở dương gian thì âm hồn sẽ phải chịu tội ở địa ngục, giống như chết một lần thứ hai. Virgilo báo trước sẽ xuất hiện một anh hồn cao cả tức Béatrice(Bích Chi) sẽ xuất hiện dần đường cho Dante đi tiếp lên thăm cõi Thiên Đường. Virgilio: Vì không qua phép rửa tội đạo Ki Tô nên không đặt chân lên Thiên Đường. Thánh Pierre (Thạch Ông), môn đệ chúa Jésus, thành Đức Giáo Hoàng thứ nhất, bị chết đóng đinh ngược đầu, giữ chìa khóa mở cửa Thiên Đường. Paris 16-11-2013 Phạm Trọng Chánh Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V. Tác Giả: Hồ Xuân Hương nàng là ai ? Nguyễn Du Mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Truyện thơ Odyssée (12110 câu lục bát). Sử Thi Iliade (16793 câu lục bát). Tự Điển Tình Yêu bằng thơ tình Xuân Diệu (toàn bộ di cảo do Xuân Diệu ký thác) Thơ tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa). Giáo Dục Việt Nam thời Pháp thuộc. Giáo Dục Miền Nam Việt Nam 1954-1975. Cánh chim từ vùng lửa đỏ, thơ Nhất Uyên Nhạc Tôn Thất Lập. Bóng Thời Gian, Thời Gian ta mãi mãi còn xanh (với Nguyễn Đăng Hưng). Chiêm Bao Trắng...
Tấm lòng của người tiên phong ngành Ý học tại Việt Nam Ngày 19/10 vừa qua, trong khuôn khổ Tuần lễ ngôn ngữ Ý lần thứ XV tổ chức tại Trường Đại học Hà Nội, thầy và trò Khoa tiếng Ý vô cùng vinh dự khi được đón nhận một món quà vô cùng ý nghĩa gồm các tác phẩm văn học, sách tham khảo, tư liệu bằng tiếng Ý từ gia đình cố giáo sư Nguyễn Văn Hoàn. Điều bất ngờ hơn nữa, gia đình cố giáo sư đã dành 10 suất học bổng cho các sinh viên ưu tú của khoa. Nhân một ngày đầu đông, ItaHanu có đôi điều tản mạn về vị cố Giáo sư đáng kính - một trong những người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng ngành Ý học tại Việt Nam. Lễ trao học bổng GS. Nguyễn Văn Hoàn cho các bạn sinh viên khoa tiếng Ý Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn (1932 – 2015), nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam, thuộc thế hệ sinh viên văn học đầu tiên của nước Việt Nam kháng chiến. Qua hơn nửa thế kỷ tham gia nghiên cứu, cố Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn đã có khoảng bốn mươi tiểu luận in trên Tạp chí Văn học và nhiều bài báo khác. Trong số tất cả các tác phẩm của giáo sư, “Thần khúc” – kiệt tác của đại thi hào văn học Ý Dante Alighieri được GS dành 30 năm để dịch hoàn chỉnh sang tiếng Việt có thể xem là tác phẩm vĩ đại nhất trong cuộc đời GS. Bản dịch tác phẩm "Thần khúc" của Đại thi hào Dante Alighieri Chia sẻ về quá trình dịch Thần khúc của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn cho biết, ông sang Ý từ năm 1978, khi chưa hề biết một chữ tiếng Ý. Nhưng những thư viện sách khổng lồ, những trường đại học danh tiếng và những giờ học đầy thách thức đã cuốn hút ông. Ông quyết định dịch Thần khúc của Dante với mong ước giúp độc giả Việt Nam tiếp xúc với một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong lịch sử văn học nhân loại, dù theo như lời ông nói, đây là một thử thách “dường như vượt quá khả năng của tôi”. Dịch giả cuốn sách cho biết, để vượt qua những khó khăn này, ông vừa dày công nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Ý; vừa huy động vốn ngoại ngữ tiếng Pháp của mình; đồng thời đối chiếu cùng lúc với nhiều bản dịch các ngôn ngữ khác nhau của những dịch giả đi trước. Cứ như vậy, kiệt tác này đã ngốn mất 30 năm của tác giả. GS Nguyễn Văn Hoàn đã vinh dự được Tổng thống Cộng hòa Ý trao tặng Huân chương Hiệp sĩ vì những đóng góp to lớn trong công cuộc phổ biến tiếng Ý và văn học Ý tại Việt Nam. Dành trọn cả cuộc đời cống hiến hết mình cho sự nghiệp nghiên cứu nói chung và ngành Ý học nói riêng, GS Nguyễn Văn Hoàn đã tích lũy được một kho tàng sách khổng lồ với hơn hàng trăm đầu sách bằng tiếng Ý. Sau khi GS qua đời, gia đình cố giáo sư đã trao tặng toàn bộ khối tài sản vô giá này cho Khoa tiếng Ý trường ĐH Hà Nội, cũng như Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Ý Dante Alighieri, với mong muốn thầy và trò khoa tiếng Ý sẽ thừa kế được di sản và tâm huyết của giáo sư. Với số sách này, Khoa tiếng Ý sẽ hình thành “Tủ sách GS Nguyễn Văn Hoàn” tại thư viện Cristoforo Borri. Số đầu sách đa dạng sẽ giúp các itahanesi có thêm cơ hội được tiếp cận với kho tài liệu tiếng Ý khổng lồ để làm phong phú thêm kiến thức của bản thân. Bên cạnh kho tàng sách, gia đình GS cũng đã có một phần quà ý nghĩa khác, đó chính là gói học bổng trị giá 10 triệu đồng dành cho các bạn có thành tích tốt trong học tập lẫn công tác đoàn-sinh viên. Quả thực, những đóng góp của GS, cũng như gia đình GS là vô cùng to lớn. Nhân một ngày đầu tháng 12, bài viết này xin được gửi tặng đến cố GS Nguyễn Văn Hoàn và gia đình như một lời cảm ơn chân thành nhất vì những đóng góp của ông cho sự phát triển của nền Ý học tại Việt Nam. Bài: Thùy Lương Ảnh: Hòa Bình
ĐAN-TÊ Tác giả: I.GÔ-LE-NHI-SEP - GU-TU-DÔP, Người dịch: Trịnh Đình Hùng Nhà xuất bản: Văn Hóa, Ngày phát hành: 26-08-1979 Ngôn ngữ: Tiếng Việt Hình thức: Bìa mềm Nhà phát hành: Kích thước: 13 x 19 cm Trọng lượng: 700g Số trang: 399 Giá bìa: 120 000 VNĐ Cuốn Thần khúc (bản dịch tiếng Việt) của Đantê , thông qua con đường ngoại giao, đã được gửi tới biếu Tổng thống Cộng hoà Italia – ngài Gioóc-gi-ô Na-pô-li-ta-nô. Ngài Tổng thống đã đánh giá rất cao sự kiện văn hoá này và gửi thư cảm ơn dịch giả GS. Nguyễn Văn Hoàn. Báo Nhân Dân cuối tuần, số ra ngày 20-12-2009 đã dịch đăng nguyên văn bức thư đó như sau: Rô-ma, ngày 24 tháng 11 năm 2009 Thưa giáo sư, Tôi nhiệt liệt cảm ơn bản dịch Thần khúc đã làm tôi cảm phục và về bức thư nhã nhặn của Giáo sư. Tôi đánh giá cao sự đóng góp của Giáo sư trong việc phổ cập văn hoá I-ta-li-a tại Việt Nam và xin thành thật khen ngợi sự am hiểu về ngôn ngữ và văn hoá I-ta-li-a của Giáo sư. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, sự cam kết của các trường đại học của chúng tôi trong việc đào tạo các sinh viên nước ngoài thể hiện một lợi khí quan trọng, quyết định làm dễ dàng sự thiết lập những mối quan hệ bền chặt giữa công dân I-ta-li-a và nước ngoài và là một phương sách có hiệu lực lớn lao để xúc tiến sự hoà nhập và hiểu biết giữa các dân tộc. Tôi đang chờ đợi hội kiến với Ngài Chủ tịch của nước Giáo sư để được hiểu biết trực tiếp về những phát triển phi thường của Việt Nam đã đạt được trên con đường phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập với các nước châu Á. Xin chúc những thành tựu nghiên cứu tiếp theo về I-ta-li-a và những đóng góp của Giáo sư trong Hội Hữu nghị Việt Nam – I-ta-li-a và xin gửi Giáo sư những lời chào tốt đẹp. Về vị trí lịch sử, xã hội và văn hoá, công chúng Việt Nam coi Thi hào Đantê Alighiêri như người Anh hùng dân tộc – Danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi của đất nước mình. Sách rất cần cho người muốn tìm hiểu, học tập, nghiên cứu văn học Ý nói riêng và văn học thế giới nói chung.
Vũ trụ trong Thần Khúc của Dante – Kỳ I: Thảm thương nhất là những kẻ phải ở ngoài địa ngục! Thần Khúc của Dante là một trong những bản trường ca vĩ đại nhất của thế giới, đứng ngang hàng với Iliad của Homer, Thiên đường đã mất của Milton, hay Đấng cứu thế của Klopstock. Nó đưa người đọc đến với một vũ trụ quan đầy sức tưởng tượng và tính ẩn dụ, để tìm cách trả lời cho câu hỏi mà nhân loại vẫn luôn tìm kiếm: “Chết rồi thì sẽ đi về đâu?” Tranh vẽ Dante đang cầm tác phẩm Thần khúc, và cảnh báo con người về những gì mà họ sẽ gặp phải tại Địa ngục, 1465, họa sĩ Domenico di Michelino Xem thêm: Vũ trụ trong “Thần Khúc” của Dante – Lời tựa Thần Khúc bắt đầu bằng cảnh Dante bị lạc trong một khu rừng tăm tối khi ông đã đi được nửa quãng đường đời, cũng mang nghĩa ẩn dụ là ông đã bị sa vào những toan tính và dục vọng ở nơi trần thế: Đến nửa đường đời, Tôi thấy mình lạc trong rừng tối: Lạc mất đường chính đạo! Ôi, nói sao cho hết bao điều cay đắng, Rừng hoang vu, hiểm trở, trập trùng… Dante cảm thấy mình như một người kiệt sức vừa mới thoát lên bờ từ biển cả mênh mông. Tuy nhiên ông đã tìm được hy vọng với một “tình yêu thần thánh”: Đó là lúc bình minh vừa rạng Mặt trời lên giữa các vì sao, Và tình yêu thần thánh. Khơi dậy bao điều tốt đẹp, Như cho lòng tôi hy vọng Dường như Dante đang nói tới Beatrice, người con gái mà ông chỉ gặp có hai lần, một lần khi cả ông và nàng còn nhỏ, và lần còn lại là 9 năm sau, khi Beatrice đang đi trên một con đường của Florence. Nàng nhận ra Dante và quay qua chào ông. Chỉ hai lần gặp mặt ngắn ngủi nhưng Dante đã nảy sinh một “tình yêu thần thánh” với Beatrice, một tình yêu mà ông không thể diễn tả bằng lời. Một tình yêu không giống với tình yêu trần tục nào khác… Trong những khổ đầu của một tác phẩm khác là “La Vita Nuova”, Dante đã mô tả lại một giấc mơ trong đó ông gặp Chúa trời, Ngài đang bồng Beatrice đang ngủ và nói chuyện với ông, khai thị cho ông. Chính vì thế, tình yêu của Dante với nàng Beatrice là một sự ngưỡng mộ, tình yêu những điều thánh thiện, chứ không phải là tình cảm bình thường giữa hai người khác giới. Dante tình cờ gặp nàng Beatrice tại Ponte Santa Trinita, 1883, Họa sĩ Henry Holiday Tuy nhiên, 8 năm sau cái lần gặp gỡ thứ hai đó, Beatrice mất. Dante lại tiếp tục lạc lối trong cõi đời, và nhà thơ mô tả điều đó bằng ba hình ảnh ẩn dụ: một con sư tử, một con báo, và một con sói cái, ba con vật đã xuất hiện và đuổi theo Dante trong rừng rậm. Ông hoảng sợ, nhưng không chạy trốn được, và cũng không tìm được một “con đường đúng đắn”. Những cám dỗ và tội lỗi thế gian đã khiến Dante tự đánh mất chính mình: Như một kẻ máu mê thèm thắng bạc, Nhưng lại gặp hồi đen thua sạch, Chỉ còn biết đau khổ than vãn! Con thú kia cũng khiến tôi như vậy, Nó đến để tấn công tôi, Đẩy tôi lùi về phía tối ánh mặt trời. Trong khi chìm vào nơi sâu thẳm của tội lỗi ấy, Dante đã may mắn gặp được một linh hồn cứu giúp ông, đó là nhà thơ cổ La Mã Virgil, tác giả của trường ca Aeneid. Virgil là người đã có ảnh hưởng rất lớn tới thơ ca của Dante, và được Dante coi như một vị thầy chưa từng gặp mặt. Virgil cứu thoát Dante, 1859, Họa sĩ Jean Baptiste Camille Corot Virgil nói rằng nàng Beatrice, vốn tuân theo sự chỉ dẫn của Đức mẹ Mary, đã phái Virgil tới để cứu thoát Dante và dẫn ông vào một cuộc hành trình trong thế giới của các linh hồn. Virgil hé lộ: Hãy đi theo ta – ta sẽ là người hướng đạo Dẫn ngươi đi khỏi nơi đây, tới chốn vĩnh hằng! Ngươi sẽ nghe những tiếng kêu tuyệt vọng, Sẽ thấy những âm hồn đau đớn, Khóc than vì phải chết lần thứ hai! Ngươi sẽ thấy cả những người an tâm trong lửa ngục, Vì hy vọng một ngày mai Được sống giữa những người hằng phúc. Ở đây có một ẩn đố, cũng là một chi tiết mà hiếm người để ý. Trong văn hóa phương Tây, luân hồi dường như là một đề tài ít người biết. Nhưng thực chất, luân hồi đã từng được một số tu sĩ phương Tây cổ xưa truyền bá. Chỉ là khái niệm luân hồi không được Nhà thờ Cơ đốc công nhận và bị gạt bỏ. Cần nói thêm rằng, Cơ Đốc giáo chỉ tin vào sự phục sinh của một linh hồn, từ chốn trần gian trở thành một linh hồn thánh khiết được cứu rỗi – Nghĩa là sau khi người ta chết đi, thì một là lên Thiên đàng, hai là xuống địa ngục, có vậy thôi. Nhưng qua những vần thơ, Virgil lại tiết lộ một chi tiết rằng: Ngươi sẽ thấy cả những người an tâm trong lửa ngục, Vì hy vọng một ngày mai Được sống giữa những người hằng phúc. Khi đọc đến dòng này, hẳn sẽ có người liên tưởng tới những gì được giảng trong Phật giáo phương Đông: Những linh hồn phải hoàn trả tội lỗi nơi địa ngục thông qua các hình phạt đau đớn khôn tả. Nhưng khi tội lỗi đã được hoàn trả xong rồi, thì họ lại có cơ hội làm người. Và trong khi làm người, họ lại có cơ hội được cứu rỗi. Với những linh hồn đó, họ vẫn còn “hy vọng” được “sống giữa những người hằng phúc”. Đây quả là một ẩn đố chỉ được hóa giải khi kết nối hai nền văn hóa Đông Tây, vì vốn các tín đồ Cơ Đốc giáo hiện nay không tin rằng luân hồi có tồn tại. Dante và Virgil trong Địa Ngục, 1855, Họa sĩ Rafael Flores Quay trở lại câu chuyện của Dante, ông được linh hồn của Virgil dẫn bước tới một cánh cổng, nơi được chạm khắc 9 dòng chữ sau: Qua khỏi đây là xứ thảm sầu, Qua khỏi đây là đau thương vĩnh viễn! Qua khỏi đây là thế giới của bọn người vô vọng! Công lý Tạo hoá, quyền uy Thánh Thần, Đã tạo ra Ta, Trí tuệ tuyệt vời cùng Tình yêu thứ nhất. Trước Ta chưa có gì được tạo lập, Chưa có gì vĩnh cửu; còn Ta, Ta tồn tại vĩnh hằng. Hỡi chúng sinh, khi bước vào đây, hãy vứt lại mọi niềm hy vọng! Đó chính là cánh cổng địa ngục. Và tại đây, trước khi bước vào địa ngục, Dante đã nghe thấy được một điều khiến ông ấn tượng mạnh mẽ: Đó đây, tiếng thở dài, tiếng kêu khóc gào rống, Ầm ầm trong không gian chẳng một vì sao, Mới thoạt nghe, nước mắt tôi đã tuôn trào! Những ngôn ngữ khác nhau, những thổ âm khủng khiếp, Những ngôn từ đau đớn, những ngữ điệu điên khùng, Những tiếng quát to, khàn khàn và tiếng bàn tay… Dante hỏi Virgil rằng đó là thứ gì mà khiến ông trào nước mắt, và Virgil đã trả lời như sau: Tình cảnh đớn đau này, Dành cho những linh hồn nhàm chán, Sống không hèn nhưng chẳng dám khen, chê. Chúng hòa theo bản đồng ca của đám thiên thần, Không phản Chúa, nhưng cũng chẳng trung với Chúa, Chỉ vì mình, chỉ vì chúng mà thôi! Thiên đình tống chúng đi, để Thượng giới khỏi giảm phần tươi đẹp, Địa ngục thẳm sâu cũng chẳng thèm nhận chúng, Vì sợ đám tội đồ lại có cớ để vênh vang! Nếu ai đã từng được tiếp xúc với trường ca “Thiên đường đã mất” của Milton thì đều biết về một trận chiến trên Thiên đàng, giữa một bên là kẻ từng là Tổng lãnh Thiên thần Lucifer dẫn đầu các Thiên thần nổi loạn và một bên là Tổng lãnh Thiên thần Michael dẫn đầu các Thiên thần tuân theo sự dẫn dắt của Chúa trời. Kết thúc trận chiến, Lucifer (bấy giờ đã bị đổi tên thành quỷ Satan) và tất cả các Thiên thần theo y bị đuổi khỏi Thiên đàng như là một sự trừng phạt đối với cuộc nổi dậy của chúng. “Thiên đường đã mất” của Milton đã miêu tả một cách sinh động trận chiến này. Sự thua trận của những Thiên thần sa ngã, 1562, Họa sĩ Pieter Bruegel Xem thêm: Tìm hiểu nghệ thuật Phục Hưng – Kỳ VII: Chúa Jesus vượt qua cám dỗ của ác quỷ Lại nói tiếp về sự phán xử các Thiên thần, trong khi những Thiên thần tuân theo Chúa được ở lại, và những kẻ phản Chúa bị đuổi khỏi chốn Thiên đàng, thì Virgil tập trung vào nhóm Thiên thần thứ ba – Những kẻ “sống không hèn nhưng chẳng dám khen, chê”. Điều đáng nói ở đây là việc Virgil đã nhấn mạnh với Dante rằng, thảm thương nhất không phải là các linh hồn đang ở trong địa ngục, mà là những kẻ đang ở ngoài địa ngục. Tại sao lại như thế? Ta sẽ nói với con rất vắn tắt. Đến cái chết, chúng cũng không còn hy vọng, Chỉ sống tiếp cuộc đời mù loà thấp kém, Nên ước ao bất kỳ số phận nào! Đọc đến đây, người ta không thể không đặt câu hỏi: Tại sao những Thiên thần không làm điều ác lại nhận lấy một kết cục đáng sợ đến như vậy? Lại trở thành những linh hồn lang thang không có chốn trở về? Ngoài ra chúng ta còn cảm giác rằng dường như nó không có gì đáng sợ lắm so với những hình phạt ở chốn địa ngục. Chẳng phải trước cửa địa ngục có đề dòng chữ “Hỡi chúng sinh, khi bước vào đây, hãy vứt lại mọi niềm hy vọng!” sao? Các Thiên thần phản Chúa bị trục xuất, 1450 – 1516, Họa sĩ Hieronymus Bosch Để lý giải điều này, có lẽ người ta lại phải quay về tín ngưỡng phương Đông một chút. Thật ra các linh hồn trong địa ngục chẳng phải vẫn còn một tia hy vọng sao? Đó là hoàn trả hết tội lỗi thì lại được đầu thai làm người, lại được có lại hy vọng. Chẳng qua thời gian hoàn trả tội lỗi của họ dường như dài đến vô vọng mà thôi. Nhưng Virgil chẳng phải đã nói rằng: Ngươi sẽ thấy cả những người an tâm trong lửa ngục, Vì hy vọng một ngày mai Được sống giữa những người hằng phúc. Vậy như thế nào mới là hết hy vọng? Trong Phật giáo phương Đông có nói đến những kẻ bất ngờ chết trước khi số mệnh kết thúc sẽ cô hồn dã quỷ không có lối về, những kẻ không được ăn uống, sống trong vô vọng, cần được các thầy tu làm lễ siêu độ, giúp họ có nơi chốn để về, cũng tức là quay lại vòng luân hồi và tiếp tục có “một tia hy vọng” được giải thoát. Chính là như vậy! Những Thiên thần bàng quan trước trận chiến trên Thiên đàng đã phải đối mặt với một hình phạt to lớn: “Không còn hy vọng!”. Họ “ước ao bất kỳ số phận nào!” bởi vì bất kỳ số phận nào, dù là trong những hình phạt thảm khốc chốn địa ngục thì vẫn còn có một tia cơ duyên được giải thoát. Một linh hồn không còn hy vọng là một linh hồn đau khổ nhất – Đó là các Thiên thần đã bàng quan trước cái ác. Thảm thương nhất là những kẻ không còn hy vọng – Họ chạy theo một lá cờ ở phía sau lưng Dante. Tranh minh họa cho khúc thứ 3 trong Thần Khúc , 1587, Họa sĩ Stradanus Ngoài các linh hồn đã từng là Thiên thần đó ra, Dante còn nhìn thấy một nhóm những kẻ tương tự, sống mà chỉ biết nghĩ tới mình, không dám lên tiếng trước tội lỗi xảy ra, những kẻ này cũng không được phép bước vào địa ngục. Cả hai nhóm này đều chịu sự trừng phạt khủng khiếp vô tận, đó là ra sức chạy theo một lá cờ, tượng trưng cho sự ích kỷ của bản thân: Tôi nhìn quanh và thấy một lá cờ, Vừa quay tròn, vừa lướt chạy cực nhanh, Hình như chẳng bao giờ nghỉ. Cuốn theo sau một đoàn người dằng dặc, Đông đến mức tôi không thể nào tin được, Kèm theo đó là sự báo ứng không ngừng nghỉ, và tuyệt đối không còn hy vọng: Đây đúng là lũ người tệ mạt, Cả Chúa Trời lẫn địch thủ đều khinh! Lũ khốn này chưa bao giờ dám sống, Chúng trần truồng và bị quấy nhiễu liên hồi, Bởi lũ ruồi và ong vò vẽ. Mặt chúng bị rạch ngang rạch dọc, Máu hoà nước mắt, ròng ròng chảy xuống chân, Nơi dòi bọ thối tha đang chờ uống! Qua số phận của nhóm Thiên thần sa ngã và các linh hồn này, có lẽ Virgil, hay Dante, hay cũng rất có thể là Chúa trời và các Thiên thần chân chính, đã thông qua Dante mà nhắn nhủ tới thế nhân một bài học sâu sắc nhất, một bài học mà nhân loại ngày nay vẫn đang quằn quại để hiểu được: Kẻ làm ác thì tất nhiên sẽ chịu ác báo, nhưng kẻ đứng ngoài chưa chắc đã là người vô tội. Những kẻ ích kỷ, làm ngơ trước cái ác, bàng quan trước cái ác, sẽ phải chịu ác báo, sẽ phải trả giá. Và đôi khi sẽ phải trả bằng thứ quý giá nhất của sinh mệnh bản thân mình – Hy Vọng! Chú thích: Bài viết sử dụng bản dịch Thần Khúc tiếng Việt của dịch giả Nguyễn Văn Hoàn. Quang Minh
GS Nguyễn Văn Hoàn và 30 năm dịch 'Thần khúc' 'Liều' dịch 'Thần khúc' vì quá đam mê ngôn ngữ và văn học Italy; miệt mài nghiền ngẫm suốt 30 năm vì đối diện với một tác phẩm quá khó, GS Nguyễn Văn Hoàn cuối cùng cũng đã mang đến cho độc giả VN bản dịch tiếng Việt đầy đủ đầu tiên kiệt tác của Dante Alighieri. Thần khúc bản tiếng Việt của GS Hoàn vừa được Đại sứ quán Italy ở VN giới thiệu chiều 16/11 tại Hà Nội. Đại sứ Italy Andrea Perugini phát biểu: “Thật là vui mừng và biết ơn đón nhận bản dịch của Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn. Ông đã thực hiện việc dịch hoàn chỉnh sang tiếng Việt lần đầu tiên một trong những kiệt tác văn học của mọi thời đại”. Là một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất của nhân loại, Thần khúc của Dante gồm 100 khúc, 14.226 câu thơ được chia làm 3 phần: Địa ngục, Tĩnh thổvà Thiên đường. Địa ngục, chia làm 9 khu, là những cuộc gặp gỡ của nhà thơ (đóng vai nhân vật chính trong tác phẩm) với đủ loại tội nhân, từ tham nhũng, dâm ô, trụy lạc đến những kẻ tư thông, bội phản... Tùy tội nặng nhẹ khác nhau, tất cả đều phải chịu những cực hình ghê sợ. Phần 2 - Tĩnh thổ - diễn ra tại một ngọn núi ở tận cực Nam của trái đất, là nơi có 7 tầng, tượng trưng cho bảy trọng tội theo quan niệm của Cơ đốc giáo. Tĩnh thổlà nơi các tội nhân suy tư sám hối. Còn phần 3 - Thiên đường, gồm 9 tầng - là sự tưởng tượng của Dante về những người được Thượng đế lựa chọn. Bìa tiếng Việt cuốn "Thần khúc". Ra đời cách đây 7 thế kỷ, Thần khúc được đánh giá là một tác phẩm tổng hợp những kiến thức triết học - nghệ thuật của văn hóa trung cổ, đồng thời là điểm kết nối với thời đại Phục hưng, bắt đầu từ chính Italy. Chia sẻ về quá trình dịch Thần khúc của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn cho biết, ông sang Italy từ năm 1978, khi chưa hề biết một chữ tiếng Italy. Nhưng những thư viện sách khổng lồ, những trường đại học danh tiếng, những giờ học thách thức đã cuốn hút ông. Ông quyết định dịch Thần khúc của Dante với mong ước giúp độc giả Việt Nam tiếp xúc với một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong lịch sử văn học nhân loại, dù theo như lời ông nói, đây là một thử thách "dường như vượt quá khả năng của tôi". "Trước khi có bản dịch của tôi, người Việt Nam đã biết đến bản dịch 30 khúc đầu tiên của GS Lê Trí Viễn và nhà thơ Khương Hữu Dụng. Nhưng họ dịch từ tiếng Pháp. Tôi nghĩ, nếu dịch được từ nguyên bản, bao giờ cũng tốt hơn. Vì vậy, tôi bắt tay vào công việc này, dù biết làm như thế là rất liều, rất to gan". Lý giải cho "sự liều" của mình, GS cho biết: "Ở trường đại học, điểm thi tiếng Italy của tôi rất cao. Khả năng ngôn ngữ của tôi không tồi. Nhưng so với thứ ngôn ngữ Dante sử dụng trong Thần khúc thì những gì tôi biết là chưa đủ. Đó là chưa kể, tác phẩm được viết theo trí tưởng tượng của nhà thơ về những nơi chưa ai từng đặt chân đến như Địa ngục và Thiên đường, nên không phải ai cũng hiểu hết được những điều tác giả định nói". Dịch giả cuốn sách cho biết, để vượt qua những khó khăn này, ông vừa dày công nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Italy; vừa huy động vốn ngoại ngữ tiếng Pháp của mình; đồng thời đối chiếu cùng lúc với nhiều bản dịch các ngôn ngữ khác nhau của những người đi trước. "Sau khi dịch xong phần thứ nhất - Địa ngục - tôi tự hào cho rằng, thế là mình dễ dàng thừa thắng xông lên với hai phần còn lại. Nhưng không ngờ, càng dịch tôi càng thấy khó", ông kể Cứ như thế, kiệt tác nổi tiếng này đã ngốn hết của GS Hoàn 30 năm ròng rã. "Tất nhiên, trong 30 năm đó, tôi cũng còn nhiều công việc khác. Nếu dồn lại, chỉ chuyên tâm dịch Thần khúc, tôi áng chừng sẽ mất khoảng 5 năm", ông nói. Đánh giá về tầm quan trọng của Thần khúc và sự ảnh hưởng của Dante đến văn học Italy, GS Nguyễn Văn Hoàn cho biết: "Dường như Dante là một nhân vật đã được thần thánh hóa ở Italy. Trong một cuộc khảo sát hơn 150 trường đại học ở châu Âu để tìm hiểu xem thế giới nghiên cứu gì nhiều nhất về Italy, câu trả lời là Dante. Trong thời gian tôi học ở Italy, mỗi khi có buổi đọc sách Thần khúc, công chúng tham dự rất đông. Điều này khiến tôi rất ngạc nhiên". Tại buổi giới thiệu sách, Đại sứ Italy cũng chia sẻ, sắp tới Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sẽ có chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên tới Italy sau 36 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Thần khúc bản tiếng Việt được chọn gửi đến Bộ Ngoại giao với hy vọng Chủ tịch nước sẽ sử dụng làm quà tặng cho Tổng thống Italy.
Dante và ‘Thần khúc’ Năm 1882, trong chuyến giảng bài vòng quanh nước Mỹ, Oscar Wilde đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy cuốn “Thần khúc” (The Divine Comedy) tại một trại phục hồi nhân phẩm ở Nebraska. "Chúa ơi! Ai có thể tưởng tượng được là lại tìm thấy Dante ở chốn này”, ông thốt lên. Thu Hà - Chân dung Dante. Ảnh: dantelz Nhưng điều dễ hiểu là ở chỗ, thiên trường ca trung cổ về tội ác và sự cứu rỗi của Dante sẽ là nguồn sáng khai trí cho những con người đang trong cuộc hành trình hướng thiện. Gần đây, Jeffrey Archer, một tù nhân người Anh, đã viết 3 tập Nhật ký ngồi tù với lối kết cấu 3 phần hệt như Thần khúc của Dante: Địa Ngục, Luyện ngục (còn được dịch là Tĩnh ngục) và Thiên đường. Thiên tài của Dante hầu như không được đánh giá xứng đáng tại các quốc gia sử dụng tiếng Anh. Lỗi này một phần do các dịch giả ở thời đại Victoria. Các giáo sĩ, công chức và những nhân vật đáng trọng khác ở thời này đã dịch những áng thơ trong suốt như pha lê của Dante thành thứ văn chương sáo ngữ mộ đạo hoặc những giáo lý đạo đức khô khan. Ngay cả Longfellow, tác giả của bản dịch được coi là ưu việt nhất, xuất bản trong khoảng 1865-1867, khi chuyển ngữ trường ca này của nhà thơ cũng phải cắt bỏ rất nhiều đoạn hoặc dò dẫm theo kiểu “word by word” (dịch từng chữ). Trong Thần khúc, Dante đã khắc hoạ một cách chính xác những cảnh trừng phạt đầy sống động và ghê rợn: những tên buôn thần bán thánh bị đốt chân trong lửa; những kẻ cầm quyền ngang ngược bị nhúng trong đầm phân; kẻ hung ác bị luộc chín trong dòng sông sôi máu nóng, người tâm địa xấu xa bị nhấn chìm trong băng… Hơn 700 năm qua, Dante không có đối thủ trong những trang viết đề cập đến nỗi kinh hoàng nơi chín tầng địa ngục ở một thế giới khác. Bìa cuốn "Thần khúc - Địa ngục" do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 2005. Dante Alighieri sinh năm 1265 trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc lâu đời tại Florence. Mẹ ông, bà Bella degli Abati, mất sớm khi nhà thơ chỉ mới 7 tuổi (1272). Cha ông lấy vợ hai nhưng cũng qua đời không lâu sau đó. Ông may mắn được Brunetto Latini nuôi nấng và đỡ đầu. Latini là một nhà chính trị, một học giả uyên bác. Ông đã dạy cho nhà thơ nhiều kiến thức phong phú về văn học La Mã và những kiến thức khoa học đương thời. Năm 12 tuổi, Dante được hứa hôn với Gemma Donati. Nhưng trước đó, trái tim của nhà thơ tương lai đã phải lòng một cô bé khác tên là Beatrice. Lúc đó nàng mới 9 tuổi. Nhiều năm về sau, Dante gặp lại Beatrice. Ông đã làm rất nhiều bài thơ tặng nàng nhưng tuyệt nhiên vợ ông, Gemma, không bao giờ được đề cập đến trong bất cứ một bài thơ nào của ông. Beatrice mãi mãi là nàng thơ của Dante. Cuộc hôn nhân với Gemma Donati kéo dài được 2 năm (1285-1287). Simone dei Bardi trở thành người vợ thứ hai của ông nhưng vẫn không thay thế được vị trí của Beatrice trong lòng nhà thơ. Beatrice lấy chồng và qua đời tháng 6/1290, lúc mới 24 tuổi. Dante trốn chạy nỗi buồn bằng cách lao đầu vào nghiên cứu triết học, thần học, thiên văn học và bắt đầu viết những bài thơ ghi lại hồi ức với Beatrice. Vào cuối những năm 1290, Dante bị cuốn hút vào các hoạt động chính trị. Ông tham gia đội quan bảo vệ quyền tự trị của xứ Florence trước sức ép của chính quyền La Mã nhưng thất bại. Năm 1302, Dante bị buộc tội liên quan đến những vụ bê bối mua quan bán tước. Ông bị tuyên bố tử hình bằng cách thiêu sống. Nhà thơ trốn thoát và sau đó phải đi đày biệt xứ, vĩnh viễn để lại vợ con ở quê hương. Từ 1302, Dante không bao giờ trở lại Florence. Ông sống lang bạt kỳ hồ qua nhiều thành phố trên nước Italy. Vào đêm 13 rạng ngày 14/9/1321, nhà thơ qua đời. Thi thể của ông được chuyển đến một nhà thờ tại San Francisco. Sau khi nhà thơ mất, giáo hoàng John XXII còn ra lệnh thiêu hủy tác phẩm De Monarchia của ông. Những trước tác còn lại của Dante được các giáo sĩ tại Francisco cất giấu. Năm 1519, Giáo hoàng Leo X quyết định giao cho Michelangelo chuyển số tư liệu này về Florence và được lưu giữ lại cho đến ngày nay. Dante viết Thần khúc trong những ngày tháng lưu vong. Cuộc đời trôi nổi và số phận bi kịch của nhà thơ đã khiến ông sáng tác nên những câu thơ vừa giàu giá trị triết học, tôn giáo vừa thể hiện rõ thế giới tinh thân phong phú của con người. Ông là một trong những người khép lại thời kỳ trung cổ và mở ra cánh cửa của thời đại Phục Hưng. (Nguồn: Tổng hợp)
Cách đây bốn năm, dịch giả Nguyễn Văn Hoàn đã dịch và giới thiệu phần một - “Địa ngục” - của trường ca này. Nhưng theo ông thì phần 2 “Tĩnh ngục” và phần ba “Thiên đường” mới là những phần khó khăn nhất. Dante viết trường ca này bằng thứ tiếng Ý rất cổ (1265-1321), các dịch giả châu Âu với đầy đủ kiến thức, uy tín và có chung một nền văn hóa để hiểu được phần nào tư duy sáng tạo của tác giả mà vẫn kêu trời vì khó. Đối với Nguyễn Văn Hoàn thì đây quả là một thách thức. “Thần Khúc” được coi là bằng chứng văn học của văn minh trung cổ và là kiệt tác của nhân loại. Trường ca được chia làm ba phần, gồm 100 khúc, mỗi khúc gồm nhiều khổ thơ ba câu có 11 âm tiết; kể về một cuộc du hành qua ba vương quốc của thế giới bên kia. Phần “Địa ngục” còn có thể luận giải được trên cơ sở liên tưởng từ thế giới thực trong cuộc đời, chứ phần “Thiên đường” thì hoàn toàn là những tưởng tượng phong phú kiệt xuất của một cái đầu vĩ đại mà người bình thường không dễ gì hiểu được. Thế giới hiện đại luôn quan tâm đến tác gia vĩ đại này. Cho đến bây giờ, Dante vẫn là nhà thơ Ý được tìm kiếm và chuyển ngữ tác phẩm nhiều nhất. Tại các trường đại học ở Ý, các cuộc điều tra cũng cho thấy sinh viên yêu thích và tôn thờ Dante như một vị thánh của văn hóa. Những lần được mời sang Ý tham dự các sự kiện đọc thơ Dante trên quảng trường, dịch giả Nguyễn Văn Hoàn đều thấy hàng ngàn người dân Ý kéo tới xem, say mê và ngưỡng vọng. Dịch giả Nguyễn Văn Hoàn tâm sự: “Dante là một cái đầu vĩ đại. Kiến thức của ông từ lịch sử, tôn giáo, triết học cho đến cả những tội ác và bao nhiêu chuyện thấp hèn trong cuộc sống đều khiến tôi kinh ngạc. Tôi cho rằng đây là một cuốn bách khoa toàn thư về lịch sử và xã hội mà người sáng tạo ra nó có một cái đầu uyên bác vượt ra ngoài thời đại của ông”. Cũng chính vì sự say mê thứ ngôn ngữ đẹp và ngưỡng vọng nhà thơ cổ đại này mà dịch giả Nguyễn Văn Hoàn đã mất tới 18 năm liền để có thể công bố với bạn đọc trọn bộ trường ca “Thần khúc”. Tất nhiên, không phải là suốt chừng đó thời gian dịch giả chỉ làm việc với bản dịch, ông vốn là giảng viên Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, nhưng nếu áng chừng số thời gian thực sự miệt mài bên tác phẩm, thì cũng mất tới 5 năm liền... Dịch giả đã phải tham khảo tới 6 bản dịch và chú giải khác nhau, trong đó 3 bản bằng tiếng Ý, 3 bản bằng tiếng Pháp. Ông khiêm tốn nhìn nhận: “Quả thực, dịch một tác phẩm văn chương cổ và có tầm vóc đồ sộ như “Thần khúc” là một việc làm quá liều lĩnh, cho dù sự liều này của tôi là “làm liều” một cách nghiêm túc chứ không làm ẩu, nhưng dù sao thì vẫn rất mạo hiểm. Thế nhưng, chính vì lòng yêu mến tác giả kiệt xuất này và mong muốn có thêm tư liệu cho những người đọc và nghiên cứu văn học, nên tôi đã bỏ công sức làm bằng được”. Xin trân trọng giới thiệu!
Tên tiếng Anh: The Divine Comedy (The Inferno, The Purgatorio, and The Paradiso) The authoritative translations of The Inferno, The Purgatorio, and The Paradiso—together in one volume. Belonging in the immortal company of the great works of literature, Dante Alighieri’s poetic masterpiece, The Divine Comedy, is a moving human drama, an unforgettable visionary journey through the infinite torment of Hell, up the arduous slopes of Purgatory, and on to the glorious realm of Paradise—the sphere of universal harmony and eternal salvation. Now, for the first time, John Ciardi’s brilliant and authoritative translations of Dante’s three soaring canticles—The Inferno, The Purgatorio, and The Paradiso—have been gathered together in a single volume. Crystallizing the power and beauty inherent in the great poet’s immortal conception of the aspiring soul, The Divine Comedy is a dazzling work of sublime truth and mystical intensity.
9 Tầng Địa ngục trong Thần Khúc của Đan Tê Địa Ngục, phần đầu tiên trong tác phẩm Thần Khúc của Dante đã truyền cảm hứng cho cuốn sách cùng tên bán chạy nhất của Dan Brown mô tả cái nhìn của nhà thơ về hình ảnh Địa ngục. Câu chuyện bắt đầu với người kể chuyện (cũng chính là nhà thơ) đang bị lạc trong một khu rừng tối, ông bị ba con quái vật tấn công và không thể thoát khỏi chúng. Sau đó, ông được nhà thơ La Mã Virgil giải cứu, người được Beatrice gửi đến từ thiên đường (người phụ nữ lý tưởng của Dante). Họ cùng nhau bắt đầu hành trình vào thế giới ngầm hay còn gọi là 9 Tầng Địa ngục. Tầng Đầu Tiên – U minh Sinh sống ở tầng Địa ngục đầu tiên là những người không phải đạo Kitô giáo và những kẻ ngoại giáo chưa được rửa tội nhưng có đức hạnh bị trừng phạt đời đời trong cõi thấp kém của Thiên đường. Họ sống trong một lâu đài có bảy cửa tượng trưng cho bảy đức hạnh. Ở đây, Dante thấy nhiều người nổi tiếng từ thời cổ đại như Homer, Socrates, Aristotle, Cicero, Hippocrates và Julius Caesar. Tầng Thứ Hai – Nhục Dục Trong Tầng Địa ngục Thứ hai, Dante và bạn đồng hành của ông, Virgil tìm thấy những người không thể vượt các dục vọng. Họ đang bị trừng phạt bởi những cơn gió mạnh dữ dội thổi qua lại, ngăn họ tìm được sự bình an và nghỉ ngơi. Cơn Gió mạnh tượng trưng cho tình trạng bồn chồn của một người bị dẫn dắt bởi những mong muốn thú vui xác thịt. Một lần nữa, Dante thấy nhiều người nổi tiếng trong lịch sử và thần thoại bao gồm cả Cleopatra, Tristan, Helen của thành Troy và những người khác đã ngoại tình trong suốt cuộc đời của họ. Tầng Thứ Ba – Phàm ăn Tục uống Khi tiến đến tầng thứ ba của Địa ngục, Dante và Virgil nhìn thấy linh hồn của những kẻ phàm ăn tục uống bị một con quái vật sâu Cerberus giám sát. Tội nhân trong tầng này của địa ngục bị trừng phạt bằng cách bị buộc phải nằm trong một mớ bùn loãng ghê tởm không bao giờ kết thúc bởi mưa băng giá. Mớ bùn loãng ghê tởm này tượng trưng cho sự biến chất của những ai quá nuông chiều dục vọng ăn uống và những thú vui trần tục khác, trong khi sự bất lực không nhìn thấy những người khác nằm gần đó đại diện cho sự ích kỷ và lạnh lùng của những kẻ phàm ăn tục uống này. Ở đây, Dante nói chuyện với một nhân vật được gọi là Ciacco, người này đã kể cho Dante rằng Guelphs (nhóm hậu thuẫn cho Đức Giáo Hoàng) sẽ đánh bại và trục xuất các Ghibellines (nhóm hậu thuẫn Hoàng đế mà Dante tôn trọng) từ Florence, sự kiện này xảy ra vào năm 1302, trước khi bài thơ được viết (sau 1308). Tầng Thứ Tư – Tham lam Trong Tầng Thứ tư của Địa ngục, Dante và Virgil thấy linh hồn của những người đang bị trừng phạt vì tham lam. Họ được chia thành hai nhóm – những kẻ tích trữ tài sản và những kẻ phung phí nó – đang cưỡi ngựa đấu với nhau. Họ sử dụng quả cân lớn làm vũ khí, việc đẩy nó bằng ngực của họ tượng trưng cho sự ích kỷ về tài sản trong suốt cuộc đời họ. Hai nhóm được canh gác bởi một nhân vật được gọi là Sao Diêm Vương (có thể là nhà lãnh đạo Hy Lạp cổ đại của thế giới ngầm), đang bận rộn với với các hoạt động của mình nên hai nhà thơ không cố gắng nói chuyện với họ. Ở đây, Dante nói đã thấy nhiều giáo sĩ bao gồm các hồng y và giáo hoàng. Tầng Thứ Năm – Giận dữ Tầng Thứ năm của địa ngục là nơi mà sự phẫn nộ và ủ rũ đang bị trừng phạt vì tội lỗi của họ. Được Phlegyas đưa đi trên thuyền, Dante và Virgil thấy sự phẫn nộ đánh nhau trên sông Styx và sự ủ rũ thì đang chạy ùng ục bên dưới mặt nước. Một lần nữa, hình phạt này phản ánh các tội ác mà họ mắc phải trong suốt cuộc đời. Trong khi đi qua, nhà thơ được tiếp cận Filippo Argenti, một chính trị gia xuất chúng Florentine, người đã tịch thu tài sản của Dante sau khi trục xuất ông khỏi Florence. Tầng Thứ Sáu – Dị giáo Khi đến Tầng Thứ sáu của Địa ngục, Dante và Virgil thấy những kẻ dị giáo đang bị kết án đời đời trong những bia mộ rực lửa. Ở đây, Dante nói chuyện với cặp đôi Florentines – Farinata degli Uberti và Cavalcante de ‘Cavalcanti – nhưng ông cũng nhìn thấy nhân vật lịch sử đáng chú ý khác bao gồm các nhà triết học Hy Lạp cổ đại Epicurus, Thánh Hoàng đế La Mã Frederick II và Đức Giáo Hoàng Anastasius II. Tuy nhiên, sau này theo một số học giả hiện đại đã lên án Dante như một kẻ dị giáo bởi một sai lầm. Thay vào đó, khi một số học giả tranh luận rằng ý của nhà thơ có thể có nghĩa là Hoàng đế Byzantine Anastasius I. Tầng Thứ Bảy – Bạo lực Tầng Thứ bảy được chia thành ba vòng. Vòng Ngoài chứa những kẻ giết người và những kẻ hung bạo với người khác và tài sản. Ở đây, Dante thấy Alexander Đại đế (bị tranh chấp), Dionysius I của Syracuse, Guy de Montfort và nhiều nhân vật lịch sử và thần thoại đáng chú ý khác như Centaurus, chìm xuống sông sôi máu và lửa. Ở Vòng giữa, nhà thơ thấy những người tự sát bị biến thành cây và bụi cây dùng để nuôi những Harpy (nữ yêu quái mình người cánh chim). Tuy nhiên, ông cũng nhìn thấy ở đây những kẻ phóng đãng, bị chó đuổi theo và xé nát ra thành từng mảnh. Vòng trong cùng là kẻ ăn nói báng bổ và những kẻ đồng tính nam và thú dâm (giao hợp với động vật cái), sống tại một sa mạc cát cháy và mưa đốt rơi xuống từ bầu trời. Tầng Thứ Tám – Gian trá Tầng Thứ Tám của Địa ngục là những kẻ gian lận. Dante và Virgil đến đó trên lưng Geryon, một con quái vật bay với những bản chất khác nhau, giống như sự lừa lọc. Tầng này được chia thành 10 Bolgias hay những mương đá có cầu nối giữa chúng. Trong Bolgia 1, Dante thấy những tên dắt gái và kẻ cám dỗ. Trong Bolgia 2, ông thấy bọn bợ đỡ. Sau khi vượt qua cây cầu đến Bolgia 3, ông và Virgil thấy những người phạm tội buôn thần bán thánh. Sau khi vượt qua một cầu nối giữa các mương đến Bolgia 4, họ thấy những phù thủy và nhà tiên tri giả mạo. Ở Bolgia 5 là những chính trị gia tham nhũng, ở Bolgia 6 là kẻ đạo đức giả và 4 mương còn lại, Dante thấy kẻ giả nhân giả nghĩa (Bolgia 7), những tên trộm (Bolgia 7), các cố vấn, tham vấn viên tội lỗi (Bolgia 8), những cá nhân gây chia rẽ (Bolgia 9) và những kẻ ngụy tạo khác nhau như các nhà giả kim thuật, kẻ phản bội lời thể, khai man trước tòa và kẻ làm hàng giả (Bolgia 10). Tầng Thứ Chín – Phản bội Tầng Thứ chín, tầng cuối của Địa ngục được chia thành 4 Vòng tròn tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội lỗi mặc dù tất cả các cư dân bị đông lạnh trong một cái hồ đóng băng. Những người phạm tội nghiêm trọng hơn sẽ nằm sâu hơn trong băng. Mỗi Vòng tròn được đặt theo tên một cá nhân hiện thân tội lỗi. Vì thế, Vòng 1 được đặt tên Caina sau khi Cain đã giết chết anh trai mình Abel, Vòng 2 được đặt tên Antenora sau Anthenor của Troy, người cố vấn Priam của trong cuộc chiến thành Troy, vòng 3 được đặt tên Ptolomaea theo Ptolemy (con trai của Abubus), trong khi vòng 4 được đặt tên Judecca sau khi Judas Iscariot, tông đồ đã phản bội Chúa Giêsu.
NHỚ NHÀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC NGUYỄN VĂN HOÀN Lời dẫn của Phạm Tôn: Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn rất quan tâm chăm sóc Thượng Chi Phạm Quỳnh. Chính ông đã đứng ra “kết thúc” cuộc thảo luận của tạp chí Hồn Việt vào năm 2006 về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Và cũng vì thế, Blog PhamTon chúng tôi đã phải có hai bài, một dài, một ngắn, một nghiêm trang, một đùa cợt viết về ông là Mấy điều giám định và bổ sung tư liệu và Kỷ lục gia về nghiên cứu Phạm Quỳnh: Kỷ lục gia số 2: Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn người tìm ra tội phản quốc lớn nhất hiện hành của Phạm Quỳnh. Nay ông đi xa, chẳng biết nói gì hơn chúng tôi xin đành mượn bài này của giáo sư Mai Quốc Liên đưa tiễn ông…. —-o0o—- Con gái anh báo tin anh mất qua hộp thư điện tử cho tôi. Thật đột ngột! PGS Nguyễn Văn Hoàn tính tình vui vẻ, điềm đạm, phong tao, đang say mê góp phần vào việc kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du với tư cách Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam. Anh thuộc thế hệ sinh viên văn học đầu tiên của nước Việt Nam kháng chiến (thời dự bị đại học ở Thanh Hóa, năm 1950, anh được học cùng các GS Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh…). Và khi hòa bình lập lại năm 1954, anh là một trong những cột trụ đầu tiên của Khoa Nghiên cứu văn học cổ, Trường đại học Sư phạm Hà Nội; phụ trách Tổ Cổ đại – Cận đại ở Viện Văn học vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Anh là một trong những người góp phần tổ chức thành công Lễ Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (năm 1965); cùng cụ Nguyễn Đức Vân, một bậc trúc nho, hoàn thành bản Truyện Kiều qua khảo sát các bản Nôm có giá trị. Anh Nguyễn Văn Hoàn là một nhà nghiên cứu, một nhà giáo mẫu mực. Anh làm hồ sơ, làm tư liệu nghiên cứu rất kỹ, có tư liệu nghiên cứu cả ở nước ngoài (tư liệu anh để lại mấy chục hòm). Thời đó, anh có mối liên hệ quốc tế với các nhà nghiên cứu Nga, Pháp, Trung Quốc và các Việt kiều… Đặc biệt, chuyến đi Bắc Kinh (Trung Quốc) tìm tư liệu về Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du của anh đã đem về cho chúng ta những tư liệu quý giá. Đó là hồ sơ, văn thư về chuyến đi sứ vào năm 1813 của Nguyễn Du ở Trung Quốc; hành trình, công việc, văn bản… còn ghi chép, còn lưu trữ ở “Thạch thất” của Hoàng thành Bắc Kinh. Nhờ đó, chúng ta biết thêm về Nguyễn Du, nhất là về Bắc hành tạp lục, tập thơ gồm những kiệt tác của Nguyễn Du. Những ý kiến của những nhà nghiên cứu Trung Quốc về Nguyễn Du qua trao đổi với anh, chẳng hạn về bài Dương phi cố lý hay Độc Tiểu Thanh ký… thì không nhất thiết Nguyễn Du phải đến tận nơi mới làm thơ! Gần đây, các bạn ở Đại học Bắc Kinh lại mời anh Nguyễn Văn Hoàn sang làm việc lần nữa. “Cố nhân”, “lão bằng hữu” (bạn cũ) mà! Chuyến đi sau 50 năm. Anh đã giảng, nói chuyện về Nguyễn Du ở Đại học Bắc Kinh, ở Đại học Quảng Tây… và sau chuyến đi định mệnh mà anh cố thực hiện đó, anh đã mãi ra đi. Anh Nguyễn Văn Hoàn để lại nhiều công trình nghiên cứu giá trị về văn học cổ Việt Nam. Anh cũng là người nghiên cứu văn học I-tali-a, dịch Thần khúc của Đan-tê. Có thể nói về anh rất nhiều điều, nhưng rốt ráo, đó là một gương mặt tiêu biểu, một con người suốt đời say mê công việc, một người anh, một người cố vấn, một người bạn tốt… Mất anh, buồn và trống vắng biết bao nhiêu! Tôi đã làm việc dưới quyền anh Nguyễn Văn Hoàn từ thời mới ra trường và mấy năm gần đây, anh cộng tác hết sức nhiệt tình và hiệu quả với Hồn Việt và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học… Tình nghĩa anh em, tình thương mến, lòng kính trọng anh… dào lên khi nghe tin anh đột ngột ra đi. Tôi không bao giờ quên giọng anh nghẹn ngào, thảng thốt báo tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần: “Anh Văn mất rồi!”. Tôi không bao giờ quên anh, gia đình thầy Đặng Thai Mai mà anh là một người rể hiền… Không bao giờ quên những tháng năm anh hướng dẫn chúng tôi đi vào khu IV bằng xe đạp để thăm quê Tiên Điền của Nguyễn Du và thăm các trận địa pháo… “Trăm năm chớp mắt có là bao” (Nguyễn Du, Thơ chữ Hán) , nhưng anh đã cống hiến, đã làm việc hết mình cho văn hóa dân tộc. GS MAI QUỐC LIÊN PGS Nguyễn Văn Hoàn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam, sinh năm 1932, mất 17-6-2015. Lễ tang cử hành vào ngày 22-6- 2015, an táng tại nghĩa trang gia đình (Phú Thọ).
Phó Giáo sư, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học Nguyễn Văn Hoàn (26.6.1932 - 17.6.2015) ra đi thật đột ngột. Vừa mới vào thứ sáu, ngày 29-5 đây, với tư cách Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Kiều học Việt Nam, ông còn ký giấy triệu tập và đến chỉ đạo Hội nghị Ban chấp hành Trung ương phiên thứ sáu nhiệm kỳ 2011-2016 nhằm đánh giá hoạt động của Hội trong thời gian qua, đặc biệt là những nhiệm vụ cụ thể mà Hội nghị phiên thứ năm (25/11/2014) đã đề ra mà trọng tâm là các hoạt động hướng tới kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du (2015) tại nhà Lục giác (số 19C phố Ngọc Hà, Quận Ba Đình, TP Hà Nội)… Sáng ngày 4-6, tôi còn đến nhà ông để nhận lại bản góp ý cho Lời nói đầu sách Truyện Kiều do Hội Kiều học Việt Nam phiên âm, chú giải… Vậy mà ông đã sớm ra đi… Quê sinh của PGS. Nguyễn Văn Hoàn ở xã Bắc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Với ông, tôi là kẻ hậu sinh, lối con cháu, từ ngày về Viện Văn học đến nay vẫn luôn gọi ông bằng Chú. Tính ra, kể từ ngày gặp ông đến khi ông nghỉ hưu năm 1999, tôi đã được gần cận bên ông suốt 16 năm trời, và những năm sau này vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp với ông. Trong cuộc sống thường ngày, tôi thấy ông là người sâu kín, luôn giữ được vẻ điềm đạm, ôn hòa, nghiêm túc, thậm chí có phần kín kẽ, cẩn thận, cầu toàn. Nhất là trước những vấn đề thời sự chính trị, chuyện luận bình các nhân vật lịch sử, chuyện đánh giá người này người khác, ông thường tỏ ra kiệm lời, thận trọng, suy đi xét lại, cân nhắc từng câu chữ. Ông kiên định với lập trường của mình nhưng trước sau vẫn giữ được sự mực thước, ôn hòa, giữ được hòa khí, không đến mức thành mâu thuẫn, đối nghịch. Ai cũng biết ông có vị thế xã hội, con rể Giáo sư Đặng Thai Mai, anh em đồng hao với bác Giáp, lại có “bà mình” là Giáo sư Đặng Thanh Lê cũng rất nổi danh, vậy mà trước sau ông vẫn khiêm nhường, lặng lẽ… Qua câu chuyện thường ngày và phần tiểu sử tóm tắt lưu trữ ở Viện Văn học, tôi được biết đại khái về ông: Thời những năm 1954-1959 là giáo viên Văn học Trường Phổ thông cấp III (có dạy cả các lớp thiếu sinh quân, sau này là những ông A, ông B…); từ 1959-1962 là giảng viên Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; từ 1962-1999 công tác tại Viện Văn học, Nghiên cứu viên Phòng Văn học Việt Nam cổ cận đại (1962-1980), Phó Viện trưởng (1980-1988); Nghiên cứu viên cao cấp từ 1993 và nghỉ hưu năm 1999. Qua hơn nửa thế kỷ tham gia nghiên cứu, Nguyễn Văn Hoàn đã có khoảng bốn mươi tiểu luận in trên Tạp chí Văn học và nhiều bài báo khác. Diện bao quát của ông khá rộng, đi từ khảo cứu truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sử thi Ê-đê Đam săn đến khái lược vai trò nguồn tư liệu văn học dân gian, từthơ văn thời Lý – Trần đến Tản Đà và giai đoạn đầu tiên của nền văn học quốc ngữ, từ các tác giả cụ thể như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Phạm Quỳnh – Ngô Đức Kế đến những vấn đề lý luận di sản văn học dân tộc, từ văn học trung đại Việt Nam đến khu vực Đông Á, mở rộng tìm hiểu và giới thiệu Truyện Kiều ở Nhật Bản, khoa nghiên cứu văn học Việt Nam kể từ khi tiếp xúc với phương Tây, đi sâu so sánh địa vị chữ Hán ở khu vực Đông Á với địa vị chữ Latinh ở khu vực Địa Trung Hải thời kỳ Trung đại… Với sự am hiểu về tiếng Pháp và cố gắng học hỏi, tìm hiểu về Quốc tế ngữ Esperanto, ông đã dành tới ba mươi năm để dịch trọn vẹn trường ca Thần khúc của Đại thi hào Italia Dante Alighieri (1265-1321)… Rồi không hiểu với cơ duyên nào, ông còn viết lời giới thiệu tiểu thuyết Trai tim tôi trên cao nguyên viết về Việt Nam thời hậu chiến của nhà văn Italia Sisto Cherchi (Đặng Khánh Thoại dịch. NXB Văn học, H., 1996, 532 trang) và sau đó tôi đã viết bài giới thiệu sách này trên báo. Đến nay có thể điểm lại các công trình nghiên cứu tiêu biểu của ông: Văn học dân tộc và thời đại (Tập tiểu luận nghiên cứu. NXB KHXH, H., 1999, 504 trang); các sách in chung: Sơ thảo nguyên lý văn học (1961), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (1964), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập I (1980) Anthologic de la literature vietnamienne, Tập I (1972), Từ điển Việt – Ý (2002);… dịch Thần khúc (NXB KHXH, H., 2009, 1058 trang)… Nói riêng về tác phẩm Thần khúc, như đã nêu, Nguyễn Văn Hoàn đã dành tới ba mươi năm để dịch trọng vẹn thi phẩm này. Còn nhớ, trước đây ông đã dịch và cho in phần Địa ngục trong Thần khúc gồm 34 khúc(NXB KHXH, H., 2005, 382 trang), rồi mấy năm sau mới hoàn chỉnh tiếp hai phần cuối Tĩnh ngục, Thiên đường và đi đến xuất bản trọn vẹn.Trong quá trình dịch, ông đã tham khảo tới sáu bản dịch và chú giải khác nhau, trong đó ba bản bằng tiếng Ý, ba bản bằng tiếng Pháp. Tâm đắc với Thần khúc của Đan tê, ông xác định: "Dante là một cái đầu vĩ đại. Kiến thức của ông từ lịch sử, tôn giáo, triết học cho đến cả những tội ác và bao nhiêu chuyện thấp hèn trong cuộc sống đều khiến tôi kinh ngạc. Tôi cho rằng đây là một cuốn bách khoa toàn thư về lịch sử và xã hội mà người sáng tạo ra nó có một cái đầu uyên bác vượt ra ngoài thời đại của ông"… Chưa kể việc góp hần dịch, giới thiệu ca dao và văn học Việt nam sang tiếng Ý, chỉ với việc thi phẩm Thần khúc, Nguyễn Văn Hoàn đã vinh dự được Tổng thống Cộng hòa Italia trao tặng Huân chương Hiệp sĩ vì những đóng góp vào việc phổ biến tiếng Italia và văn học Italia tại Việt Nam. Trên thực tế, dù đi vòng quanh thế giới và mở ra những ô cửa văn học thế giới nhưng trước sau Nguyễn Văn Hoàn vẫn gắn bó với văn học truyền thống dân tộc. Có thể nói cả cuộc đời ông đã gắn bó với Nguyên Du và Truyện Kiều, trở thành một trong những nhà Kiều học tên tuổi. Ngay từ năm 1960, lần đầu viết bài nghiên cứu, ông đã có ngay mấy tiểu luận xác định như một phương hướng tiền định mà suốt đời ông và cả giới Kiều học cùng theo đuổi: Cần có một bản Kiều quốc ngữ tương đối đúng với nguyên tác (hai phần), Bước đầu kiểm điểm cuộc thảo luận về Truyện Kiều (1960-1961), Bàn thêm về hiệu đính Truyện Kiều (1962), Sơ bộ giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc (1964)… Qua năm 1965, ông tham gia cùng nhóm túc nho Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân phiên âm, hiệu đính và chú thích Truyện Kiều (NXB Văn học, H., 1965), đồng thời viết bài tổng kết Nhân dân thế giới kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ Nguyễn Du của chúng ta (1966), Trao đổi ý kiến về việc chú thích Truyện Kiều (viết chung vớiNguyễn Sĩ Lâm, 1967)… Mãi về sau này, ông còn trở đi trở lại với vấn đề văn bản Truyện Kiềunhư Kỷ niệm trên đường đi tìm nguyên tác Truyện Kiều (1998), gần cận hơn là việc tìm hiểu Vấn đề văn bản và tâm thế đi sứ của Nguyễn Du trong Bác hành tạp lục (2013) và Hồi ức về việc kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du (1765-1965)… Chạm tay vào nguồn tư liệu xưa, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoàn cho biết, hiện ở Trung Quốc còn lưu giữ được bộ hồ sơ chí ít gồm 21 văn bản, trong đó có một tư văn của vua nhà Nguyễn gửi Tuần phủ Quảng Tây hỏi ngày giờ sứ bộ Việt Nam được qua cửa Nam Quan; hai tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du gửi về cho vua nhà Nguyễn tâu trình về công việc của sứ bộ; 18 bản mật tấu của Tuần phủ và Tổng đốc các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Trực Lệ gửi lên vua Thanh tâu trình về tình hình đi đường và việc đón tiếp, hộ tống sứ bộ Nguyễn Du trong cả hai lần đi và về. Trong số các tài liệu trên đặc biệt thú vị có tờ bẩm thứ hai của sứ bộ Nguyễn Du gửi về cho vua Gia Long như sau: "Chánh phó sứ thần là Nguyễn Du, Trần Văn Đạt, Nguyễn Văn Phong cúi đầu, dập đầu trăm lạy, kính cẩn tâu về công việc, mạo muội nói lên tình xa, ngước trông thánh minh soi xét: Chúng thần từ tháng 8 năm ngoái đến tỉnh Hồ Bắc, dọc đường đi thế nào đã có tờ bẩm dâng trước. Gần đây, thay đổi đi theo đường bộ, dọc đường mưa lụt ngăn trở, đến ngày 4 tháng 10 mới tới Kinh. Ngày hôm ấy, sau khi xong lễ dâng tờ biểu, chúng thần nghỉ lại ở công quán. Ngày mồng 5 tới tập lễ ở toà Hồng Lô Tự. Ngày mồng 6 vào cửa Càn Thanh, theo triều ban làm lễ, rồi lại tới lầu Duyệt Thị dự yến và đội ơn hoàng thưởng ban cho các vật kiện. Ngày mồng 7, các quan phủ Nội vụ tới công quán xem xét và thu nhận các phẩm vật tiến cống. Ngày 13 tới lầu Vĩnh An chờ xe hoàng thượng đi qua để làm lễ thỉnh an và xin về nước. Ngày 18 tới cửa Ngọ Môn để nhận các vật thưởng theo thể lệ và các đạo sắc thư, tư văn. Ngày 19 tới công đường Bộ Lễ dự yến. Ngày 22 lại nhận được công văn thay đổi đường đi, theo một dãy các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc mà về Quảng Tây. Ngày 24 khởi hành, ngày 11 tháng 12 mới đến tỉnh thành Võ Xương, từ đấy lại theo đường thủy mà đi. Dọc đường, nước sông khô khan, đường kênh cạn hẹp, đi rất chậm chạp, mãi đến ngày mồng 4 tháng 2 nhuần mới đến tỉnh thành Quế Lâm. Ngày mồng 7 từ Quế Lâm ra về, đi theo đường thủy. Theo lộ trình mà tính thì khoảng hạ tuần tháng 3 sẽ về tới Nam Quan..."(1). Trên cơ sở các văn bản trên, nhà nghiên cứu đã tóm tắt và nêu nhận xét. 1- Về sứ trình của Nguyễn Du: Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan ngày mồng 6 tháng 4 năm Quý Dậu (tức ngày 6 tháng 5 năm 1813) và về qua Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (tức ngày 18 tháng 5 năm 1814). Như vậy tổng số thời gian Nguyễn Du ở trên đất Trung Quốc vào khoảng gần 12 tháng rưỡi. Nguyễn Du đến Bắc Kinh ngày mồng 4 tháng 10 năm Quý Dậu (tức ngày 27 tháng 10 năm 1813) và rời Bắc Kinh ngày 24 tháng 10 năm Quý Dậu (tức ngày 16 tháng 11 năm 1813). Như vậy Nguyễn Du lưu lại ở Bắc Kinh 20 ngày. Lộ trình của Nguyễn Du từ Nam Quan lên Bắc Kinh và từ Bắc Kinh trở về nước như sau: 6-2 Quý Dậu: đi qua cửa Nam Quan 8-4 ,, : đến Ninh Minh Châu 2-5 ,, : đến thành phủ Ngô Châu 5-6 ,, : đến Quế Lâm, tỉnh lỵ Quảng Tây 18-7 ,, : từ Toàn Châu đến Trường Sa, tỉnh lỵ Hồ Nam 27-7 ,, : đến địa phận huyện Gia Ngư, tỉnh Hồ Bắc 30-7 ,, : đến Võ Xương, tỉnh lỵ Hồ Bắc 9-8 ,, : từ Hán Khẩu ra đi 22-8 ,, : đi khỏi địa phận huyện An Dương, tỉnh Hà Nam 21-9 ,, : đến trạm Tư Châu, tỉnh Trực Lệ, sau đó đi qua Bảo Định 4-10 ,, : tới Bắc Kinh 24-10 ,, : từ Bắc Kinh khởi hành về nước 2-11 ,, : về đến châu thành Cảnh Châu, tỉnh Trực Lệ; qua Đức Châu, tỉnh Sơn Đông; qua tỉnh An Huy xuống Hồ Bắc 11-12 ,, : đến Võ Xương, tỉnh Hồ Bắc 25-12 ,, : từ huyện Gia Ngư (Hồ Bắc) đi đến Lâm Dương (Hồ Nam) 30-1 Giáp Tuất: đến huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam 12-2 ,, : đến Toàn Châu, tỉnh Quảng Tây 4-2 nhuần : đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây 28-3 ,, : về qua Nam Quan Các tư liệu trên đây sẽ giúp chúng ta sắp xếp các bài thơ và nghiên cứu tập Bắc hành tạp lục một cách dễ dàng hơn, đồng thời còn giúp chúng ta hiểu thêm một số chi tiết về con người và cuộc đời Nguyễn Du. 2- Trong Bắc hành tạp lục có một số bài thơ chứng tỏ rằng Nguyễn Du có đến Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang. Nhưng trong tập hồ sơ này lại thiếu mất tờ tâu của Tuần phủ tỉnh An Huy, do đó chúng ta chưa có thêm tư liệu để có thể khẳng định rằng trên đường về, khi đi qua An Huy, Nguyễn Du có tạt xuống Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang. Đó cũng là một chi tiết cần nghiên cứu thêm(2)... Vốn là người gắn bó với Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn ngay từ đầu đã tích cực tham gia vào việc thành lập Hội Kiều học Việt Nam. Sau một thời gian dài chuẩn bị, tại Đại hội lần thứ nhất diễn ra ở trụ sở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ông đã được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội. Chỉ trong vài bốn năm, ông đã tham gia điều hành, phát triển mạng lưới tổ chức các chi hội ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, đến nay đã vượt trên 500 hội viên. Ông cũng tích tham gia các hội thảo, viết bài và đăng đàn diễn thuyết. Vừa thấy ông tham dự Hội thảo “Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới” (2013) đã thấy ông trong ngày gặp mặt giữaHội Kiều học Việt Nam với đại diện đồng hương Nghệ An - Hà Tĩnh tại Hà Nội ngày đầu xuân 2014. Vào tháng 10-2014, ông đến Hàn Quốc tham dự Hội thảo quốc tế chuyên đề “Nguyễn Du và Truyện Kiều”… Trong những tháng năm cuối đời, ông như người chạy nước rút, sôi động, nhiệt tình, cháy sáng hết mình. Cho đến những ngày giữa tháng 6 vừa qua, ông lại lên đường sang Trung Quốc, qua Bắc Kinh rồi vòng về Nam Ninh – Quảng Tây để giới thiệu, bình giảng, khẳng định giá trị kiệt tác Truyện Kiều và cũng là để chuẩn bị cho ngày Hội thảo quốc tế nhân Kỷ niệm 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015)... Vừa về đến nhà hôm trước thì hôm sau ông thanh thản ra đi... Một lần và mãi mãi… Hà Nội, ngày 21/6/2015 (1) (2) Nguyễn Văn Hoàn: Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc. Tạp chí Văn học, số 4-1964, tr. 44-57.
Nhớ nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Hoàn Con gái anh báo tin anh mất qua hộp thư điện tử cho tôi. Thật đột ngột! PGS Nguyễn Văn Hoàn tính tình vui vẻ, điềm đạm, phong tao, đang say mê góp phần vào việc kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du với tư cách Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam. Anh thuộc thế hệ sinh viên văn học đầu tiên của nước Việt Nam kháng chiến (thời dự bị đại học ở Thanh Hóa, năm 1950, anh được học cùng các GS Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh...). Và khi hòa bình lập lại năm 1954, anh là một trong những cột trụ đầu tiên của Khoa Nghiên cứu văn học cổ, Trường đại học Sư phạm Hà Nội; phụ trách Tổ Cổ đại - Cận đại ở Viện Văn học vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Anh là một trong những người góp phần tổ chức thành công Lễ Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (năm 1965); cùng cụ Nguyễn Đức Vân, một bậc trúc nho, hoàn thành bản Truyện Kiều qua khảo sát các bản Nôm có giá trị. Anh Nguyễn Văn Hoàn là một nhà nghiên cứu, một nhà giáo mẫu mực. Anh làm hồ sơ, làm tư liệu nghiên cứu rất kỹ, có tư liệu nghiên cứu cả ở nước ngoài (tư liệu anh để lại mấy chục hòm). Thời đó, anh có mối liên hệ quốc tế với các nhà nghiên cứu Nga, Pháp, Trung Quốc và các Việt kiều... Đặc biệt, chuyến đi Bắc Kinh (Trung Quốc) tìm tư liệu về Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du của anh đã đem về cho chúng ta những tư liệu quý giá. Đó là hồ sơ, văn thư về chuyến đi sứ vào năm 1813 của Nguyễn Du ở Trung Quốc; hành trình, công việc, văn bản... còn ghi chép, còn lưu trữ ở "Thạch thất" của Hoàng thành Bắc Kinh. Nhờ đó, chúng ta biết thêm về Nguyễn Du, nhất là về Bắc hành tạp lục, tập thơ gồm những kiệt tác của Nguyễn Du. Những ý kiến của những nhà nghiên cứu Trung Quốc về Nguyễn Du qua trao đổi với anh, chẳng hạn về bài Dương phi cố lý hay Độc Tiểu Thanh ký... thì không nhất thiết Nguyễn Du phải đến tận nơi mới làm thơ! Gần đây, các bạn ở Đại học Bắc Kinh lại mời anh Nguyễn Văn Hoàn sang làm việc lần nữa. "Cố nhân", "lão bằng hữu" (bạn cũ) mà! Chuyến đi sau 50 năm. Anh đã giảng, nói chuyện về Nguyễn Du ở Đại học Bắc Kinh, ở Đại học Quảng Tây... và sau chuyến đi định mệnh mà anh cố thực hiện đó, anh đã mãi ra đi. Anh Nguyễn Văn Hoàn để lại nhiều công trình nghiên cứu giá trị về văn học cổ Việt Nam. Anh cũng là người nghiên cứu văn học I-tali-a, dịch Thần khúc của Đan-tê. Có thể nói về anh rất nhiều điều, nhưng rốt ráo, đó là một gương mặt tiêu biểu, một con người suốt đời say mê công việc, một người anh, một người cố vấn, một người bạn tốt... Mất anh, buồn và trống vắng biết bao nhiêu! Tôi đã làm việc dưới quyền anh Nguyễn Văn Hoàn từ thời mới ra trường và mấy năm gần đây, anh cộng tác hết sức nhiệt tình và hiệu quả với Hồn Việt và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học... Tình nghĩa anh em, tình thương mến, lòng kính trọng anh... dào lên khi nghe tin anh đột ngột ra đi. Tôi không bao giờ quên giọng anh nghẹn ngào, thảng thốt báo tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần: "Anh Văn mất rồi!". Tôi không bao giờ quên anh, gia đình thầy Đặng Thai Mai mà anh là một người rể hiền... Không bao giờ quên những tháng năm anh hướng dẫn chúng tôi đi vào khu IV bằng xe đạp để thăm quê Tiên Điền của Nguyễn Du và thăm các trận địa pháo... "Trăm năm chớp mắt có là bao" (Nguyễn Du, Thơ chữ Hán) , nhưng anh đã cống hiến, đã làm việc hết mình cho văn hóa dân tộc. Nguyễn Văn Hoàn PGS Nguyễn Văn Hoàn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam, sinh năm 1932, mất 17-6-2015. Lễ tang cử hành vào ngày 22-6- 2015, an táng tại nghĩa trang gia đình (Phú Thọ). GS MAI QUỐC LIÊN
NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU KỲ 3: NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO VỚI TƯỚNG GIÁP Khoảng cuối năm 2000, vừa từ Italia về, đương lấn bấn việc thẩm định một tài liệu, nhân chuyến đi Trà Cổ, Móng Cái với giáo sư Mai Quốc Liên, tôi được GS mách cho gặp GS Nguyễn Văn Hoàn, một nhà Italia học. Việc ni phải gọi ông này tiên sư. Và tôi đã may mắn được ngồi với người em đồng hao với Đại tướng Võ Nguyên Giáp - GS Nguyễn Văn Hoàn. Bà vợ giáo sư là em ruột phu nhân tướng Giáp, con gái GS Đặng Thai Mai - GS Đặng Thanh Lê. Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn (trái) Quả danh bất hư truyền, GS Nguyễn Văn Hoàn, nguyên Viện phó Viện Văn học Việt Nam, ngoài nhiều công trình nghiên cứu giá trị về văn học cổ Việt Nam, GS từng nhiều năm làm công tác nghiên cứu giảng dạy tại Italia, nghiên cứu văn học Italia, dịch Thần khúc của Đan-tê. GS thuộc thế hệ sinh viên văn học đầu tiên của nước Việt Nam kháng chiến (thời dự bị đại học ở Thanh Hóa, năm 1950, GS được học cùng các GS Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh...). Khi hòa bình lập lại năm 1954, GS là một trong những cột trụ đầu tiên của Khoa Nghiên cứu văn học cổ, Trường đại học Sư phạm Hà Nội; phụ trách Tổ Cổ đại - Cận đại ở Viện Văn học vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Có lẽ phải nhiều lắm những ân hận nuối tiếc bởi cái thói lần lữa, vì tôi đã để vuột mất bao cơ hội hiếm có là được diện kiến chuyện trò với các đấng, người thì định gặp nhưng chưa gặp. Có vị gặp vài lần nhưng vẫn muốn gặp nữa vì đương dở dang bao chuyện… Để rồi tháng 6 vừa qua, GS Nguyễn Văn Hoàn đột ngột theo ông anh đồng hao Võ Nguyên Giáp ở tuổi 83. Đương bắt vào dịp lễ trọng, lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du. Viết đến đây chợt giật mình! Năm 1965, Bắc Nam còn hai miền, bom đạn mù trời mù đất của cuộc chiến tranh phá hoại cực kỳ khốc liệt thế mà Việt Nam vẫn tổ chức thành công sự kiện kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du và gây ảnh hưởng tốt trong dư luận trong nước và quốc tế. Cũng cần nói thêm rằng, để chuẩn bị cho sự kiện ấy, 3 năm trước, từ năm 1962 đã có một Ban trù bị Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Đáng nể phục thay tầm ngó xa trông rộng của tiền nhân Việt cách nay nửa thế kỷ. Thời điểm sen tàn cúc sắp nở hoa sắp tàn quý 3 của năm 2015 đã thấy rục rịch những hoạt động của một dịp lễ trọng tròn hai trăm năm chục năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du vào dịp tháng 11/2015. 3/12/2013 (sau nghị quyết của Đại hội đồng LHQ gần 2 tháng), Công văn của Văn phòng Chính phủ truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đồng ý cho tỉnh Hà Tĩnh chủ trì Lễ tổ chức kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại thi hào (lễ tầm cấp quốc gia tại Hà Tĩnh). Thôi cũng may, cứ như là cảm thêm thông điệp của cụ Phạm Quỳnh Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, nước ta còn. Hình như dân Việt mình bỗng dưng bừng thức cơn nhớ đại thi hào Nguyễn Du cùng Kiều khi ngài Phó Tổng thống Hoa Kỳ J.Biden bất ngờ lẩy ra hai câu Kiều để tặng Tổng Bí thư Nguyễn phú Trọng trong buổi chiêu đãi trọng thểTrời còn để có hôm nay/Tan sương đầu ngõ vén mây giữa giời (câu thứ 3121 và 3122). Và cảm giác giật mình vẫn như bảng lảng, bởi tôi đồ rằng chừng như ông Phó Tổng thống Hoa Kỳ biết Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng học khoa Văn Tổng hợp, chừng như cũng rành Kiều nên dịp được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Quốc hội (QH) đã nhún nhường khiêm tốn bằng động thái lấy hai câu Kiều Xét mình phận mỏng cánh chuồn/Khôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng? Hai ông, hai trạng thái hoàn cảnh lẩy Kiều, cứ như một vế đối ngoại giao vậy? Mà lạ, hai yếu nhân của Hoa Kỳ, hai thời điểm của chặng đường quan hệ bình thường Mỹ - Việt đều nhắc, đều vận đến Nguyễn Du? Tổng thống Hoa Kỳ. Bill Clinton năm 2000 thăm chính thức Việt Nam đã đánh giá về 5 năm thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường Mỹ Việt khi dẫn (lẩy) ra hai câu Kiều (câu thứ 1795 và 1796) Sen tàn cúc lại nở hoa /Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân đó sao? Có một sự tương đồng thú vị. Kim Trọng chờ đợi 15 năm mới được đoàn tụ với Thúy Kiều, còn ngài J. Biden cũng phải đợi 15 năm sau ngài Bill Clinton mới tới phiên mình lẩy Kiều? Và sắp dịp lễ trọng, không thể nhớ đến GS Nguyễn Văn Hoàn với nhiều lắm những nuối tiếc bởi chưa kịp khảo tư liệu lẫn chuyện này chuyện khác bởi GS chính là Thư ký Ban trù bị Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du và Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam. Dịp Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 9, ngồi chuyện với GS Mai Quốc Liên, hình như tôi đã thở than với GS cái chuyện nhỡ nhàng ấy… GS chỉ lặng lẽ mỉm cười. Một món quà độc đáo mà GS tặng không cho người viết bài này là một tập tư liệu mỏng của chính GS Nguyễn Văn Hoàn. Thì ra nhiều năm nay, GS Hoàn cộng tác đắc lực cho Tạp chí Hồn Việt và Trung tâm Quốc học do GS Mai Quốc Liên chủ trương. Và kèm theo một câu chuyện… GS Mai Quốc Liên bộc bạch, trong tập tài liệu gần như hồi ức ấy, GS Nguyễn Văn Hoàn nhớ lại chuyện 50 năm trước kỹ càng, phong phú, một ký ức tuyệt vời. Nhưng mải lo chuyện bên trên, chuyện bề trên, GS quên một chi tiết, tuy nhỏ, nhưng cũng nằm trong mạch hồi ức ấy. Ấy là vào khoảng cuối xuân đầu hạ 1965 - tôi nhớ mang máng thế- GS Nguyễn Văn Hoàn dẫn một đoàn cán bộ của Tổ Cổ - Cận vào thăm quê Tiên Điền của Nguyễn Du. Đoàn gồm Trần Nghĩa (sau này là Viện trưởng Viện Hán Nôm đã về hưu), Nguyễn Văn Phát, Kiều Thu Hoạch và Mai Quốc Liên. Đi bằng xe đạp. Ngày đạp xe mải miết trên quốc lộ 1 lúc đó còn chưa bị máy bay oanh tạc nhiều như sau này. Đến tối tìm nhà dân nghỉ và nấu ăn. Đến Thanh Hóa đêm hôm đó gặp đoàn các nhà văn, trong đó có cụ Khương Hữu Dụng cũng đi thực tế Khu Bốn, bị một trận đánh bom cầu Hàm Rồng, bắt đầu nếm mùi vị chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đến Tiên Điền, Nghi Xuân thì đoàn có gặp được chắt Châu (?) là cháu xa đời cụ Nguyễn Du. Cụ người cao lớn (có thể suy ra là Nguyễn Du cũng không phải vóc dáng thư sinh mảnh khảnh, yếu đuối, nên có lúc mang gươm làm võ tướng!). Nhưng chẳng tìm được tư liệu gì về Nguyễn Du. Có đến thăm mộ. Năm đó mộ của Nguyễn Du đúng là “sè sè nắm đất bên đường”. Chiến tranh, gian khổ… chưa có điều kiện lo cho mộ của cụ. Có chuyên gia Liên Xô đưa ý kiến, nếu tìm được hộp sọ Nguyễn Du, thì với trình độ khoa học của Liên Xô, có thể phục nguyên lại toàn bộ khuôn mặt, vóc dáng… Nhưng không thể... Chắc vì từ khi Nguyễn Du mất, chôn ở Bàu Đá, kinh đô Phú Xuân; 3 năm sau cải táng về Tiên Điền, đến nay xương cốt chắc cũng chẳng còn gì… Sau đó, đoàn đi vào Đèo Ngang. Đến Đèo Ngang, đói quá, vào quán gặp món cá bể, anh em ăn lấy ăn để. Có ý kiến cảnh giác Mỹ rải chất độc trên biển, ăn cá nguy hiểm. Nhưng đói, gặp bữa, chuyện đó để sau tính. Đoàn trở ra Vinh, thì vừa lúc nghe tin cụ Hoài Thanh vào. Cụ được ông Võ Thúc Đồng, Bí thư Tỉnh ủy, tiếp kiến. Nhưng đoàn chúng tôi thì danh phận thấp, không được dự. Rồi về Hà Nội, rồi đi sơ tán Hà Bắc, rồi tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh cụ Nguyễn Du rất hoành tráng. Anh Nguyễn Văn Hoàn một trong những người góp phần tổ chức thành công Lễ Kỷ niệm ấy. Lại cùng cụ Nguyễn Đức Vân, một bậc túc nho, hoàn thành bản Truyện Kiều qua khảo sát các bản Nôm có giá trị. Anh Nguyễn Văn Hoàn là một nhà nghiên cứu, một nhà giáo mẫu mực. Anh làm hồ sơ, làm tư liệu nghiên cứu rất kỹ, có tư liệu nghiên cứu cả ở nước ngoài (tư liệu anh để lại mấy chục hòm). Thời đó, anh có mối liên hệ quốc tế với các nhà nghiên cứu Nga, Pháp, Trung Quốc và các Việt kiều. .. Đặc biệt, chuyến đi Bắc Kinh (Trung Quốc) tìm tư liệu về Đại thi hào Nguyễn Du của anh đã đem về cho chúng ta những tư liệu quý giá. Đó là hồ sơ, văn thư về chuyến đi sứ vào năm 1813 của Nguyễn Du ở Trung Quốc; hành trình, công việc, văn bản... còn ghi chép, còn lưu trữ ở “Thạch thất” của Hoàng thành Bắc Kinh. Nhờ đó, chúng ta biết thêm về Nguyễn Du, nhất là về Bắc hành tạp lục, tập thơ gồm những kiệt tác của Nguyễn Du. Những ý kiến của những nhà nghiên cứu Trung Quốc về Nguyễn Du qua trao đổi với anh, chẳng hạn về các bài thơ chữ Hán Dương phi cố lý hay Độc Tiểu Thanh ký... thì không nhất thiết Nguyễn Du phải đến tận nơi mới làm thơ! Gần đây, các bạn ở Đại học Bắc Kinh lại mời anh Nguyễn Văn Hoàn sang làm việc lần nữa. “Cố nhân”, “lão bằng hữu” (bạn cũ) mà! Tôi đã làm việc dưới quyền anh Nguyễn Văn Hoàn từ thời mới ra trường và mấy năm gần đây, anh cộng tác hết sức nhiệt tình và hiệu quả với Hồn Việt và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học... Tình nghĩa anh em, tình thương mến, lòng kính trọng anh... dào lên khi nghe tin anh đột ngột ra đi. Tôi không bao giờ quên giọng anh nghẹn ngào, thảng thốt báo tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần: “Anh Văn mất rồi!”. Tôi không bao giờ quên anh, gia đình thầy Đặng Thai Mai mà anh là một người rể hiền... Không bao giờ quên những tháng năm anh hướng dẫn chúng tôi đi vào khu IV bằng xe đạp để thăm quê Tiên Điền của Nguyễn Du... Trăm năm chớp mắt có là bao (Nguyễn Du, Thơ chữ Hán), nhưng anh đã cống hiến, đã làm việc hết mình cho văn hóa dân tộc. Dịp kỷ niệm 200 năm, anh Nguyễn Văn Hoàn được phân công làm kỷ yếu kéo tôi vô làm “tà lọt”, chữa mo-rát, chứ mọi chuyện cụ Hoài Thanh quyết hết… Vậy xin bổ sung, nhớ lại cho vui chứ chuyện là “chuyện muôn năm cũ”… ______________________ Chuyến đi sau 50 năm. Anh đã giảng, nói chuyện về Nguyễn Du ở Đại học Bắc Kinh, ở Đại học Quảng Tây... và sau chuyến đi định mệnh mà anh cố thực hiện đó, anh đã mãi ra đi. Có thể nói về anh rất nhiều điều, nhưng rốt ráo, đó là một gương mặt tiêu biểu, một con người suốt đời say mê công việc, một người anh, một người cố vấn, một người bạn tốt... Mất anh, buồn và trống vắng biết bao nhiêu! (còn nữa) Xuân Ba, TPO
Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường GS Nguyễn Văn Hoàn Luật sư Sau khi đi học ở Ý về (1978-1979) cùng với Văn học Việt Nam, tôi còn phải làm về Văn học Ý và thường gặp khó khăn trước các câu trích dẫn La tinh, nhất là khi dịch Thần khúc của Dante Alighieri (1265-1321). Tôi đã đi hỏi các đồng nghiệp cao tuổi nhưng vẫn không khắc phục được hoàn toàn trở ngại đó, cuối cùng tôi nghĩ đến việc cầu cứu Thầy Nguyễn Mạnh Tường. Thầy là Tiến sĩ Luật, phải nghiên cứu sâu Luật La Mã, do đó thấy phải rất giỏi tiếng La-tinh. Nhưng đến làm phiền một giáo sư - học giả như Thầy mà chỉ là để nhờ dịch mấy câu La-tinh thì e không thích hợp, thế là tôi để đạt thêm nguyện vọng thứ hai: muốn được nghe kinh nghiệm của Thầy trong việc thâm nhập vào các nền Văn học châu Âu. Thầy vui vẻ nhận lời. Chiều ngày 18/9/1991, tôi đến nhà Thầy ở số 34 phố Tăng Bạt Hổ, Hà Nội. Đi qua một cái sân nhỏ có nhiều bóng cây, tôi đi vào phòng khách của một biệt thự cổ, toàn bàn ghế cổ sau bao “tang thương dâu bể”. Thầy đã quá già, so với hồi năm 1953, tôi học với Thầy ở Ban Sư phạm cao cấp của Trường dự bị Đại học Liên khu IV ở Thanh Hóa. Và đúng như tôi dự đoán, mấy câu La-tinh trích từ Kinh Thánh, từ các Thánh Ca đã làm tôi lúng túng, Thầy chỉ giảng khoảng 15 phút là xong. Hầu như cả buổi chiều hôm ấy Thầy nói như trút hết cả nỗi niềm, tâm sự. Sau đây tôi xin được lược ghi lại lời Thầy. “Tôi sinh năm 1909, năm 1927 sang Pháp. Bạn bè khuyên tôi đừng lên Paris, lạnh quá, ở Montpellier, một năm có 300 ngày nắng, hợp với ta hơn. Sau hai năm tôi đỗ Cử nhân Văn khoa, với 4 chứng chỉ: Văn học Pháp, Văn học Hy Lạp, Văn học La Mã, Ngữ Pháp. Năm 1930, tôi đỗ Cử nhân luật Sau đó xin thi Thạc sĩ. Đây là một kỳ thi tuyển, nếu đậu sẽ được bổ làm giáo sư trung học, nhưng họ không cho vì tôi không có quốc tịch Pháp. Các giáo sư bảo, vậy thì học lên để thi Tiến sĩ. Thời đó, Tiến sĩ Pháp có hai loại: Tiến sĩ đại học và Tiến sĩ quốc gia. Tiến sĩ Đại học chỉ là một danh nghĩa, chứ chưa đem lại cho mình quyền lợi gì cụ thể. Tiến sĩ quốc gia thì khó lắm, trước hết phải có bằng chuyên sâu cao đẳng, như phó Tiến sĩ Liên Xô, sau đó phải trình hai luận án, một chính, một phụ, lại phải thi vấn đáp hai ngoại ngữ Anh và Đức. Năm 1932, tôi thi đậu Tiến sĩ Luật, một tháng sau thi đậu Tiến sĩ Văn, đều ở Đại học Montpellier, 22 tuổi rưỡi tôi đậu hai bằng Tiến sĩ là như vậy. Về nước có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty, gặp và gợi ý tôi vào làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp. Năm năm trời đi du lịch và nghiên cứu các nước châu Âu: Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Hy Lạp, Thồ Nhĩ Kỳ, Ai Cập. . . Trong thời gian này tôi viết bốn cuốn sách bằng tiếng Pháp: 1. Nền tảng Pháp. 2. Kinh nghiệm Địa Trung Hải. 3. Kinh nghiệm và nước mắt tuổi trẻ. 4. Du lịch và cảm xúc (Kịch). Dụng ý của tôi là cung cấp cho công trường Việt Nam và châu Á những nguyên vật liệu xây dựng của văn minh châu Âu. Sau 5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi). Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng, trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp thì có Hoàng Xuân Hãn dạy Toán, Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lý. Các học trò xuất sắc, tôi còn nhớ có Lê Kim Chung sau làm ngoại giao, Lê Khắc làm ngoại thương, Nguyễn Sĩ Quốc, Tiến sĩ về Y khoa. Năm 1940, Pháp thua trận, Nhật đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội đồng, do Phạm Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia nhưng tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn phòng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo, đây là nghề tôi đã tập sự bên Pháp. Tháng 9 năm 1945, Cách mạng thành công. Chỉ hơn một tháng sau khi đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam độc lập ở quảng trường Ba Đình, cụ Hồ ký sắc lệnh lập thêm Trường Đại học Văn Khoa, bổ sung vào hệ thống trường đã có, do Pháp lập, ông Đặng Thai Mai làm Giám đốc, tôi được cử dạy Khoa Văn chương Tây Phương. Năm sau, cụ Hồ lại mời tôi đến giao cho một nhiệm vụ quan trọng. Người đến mời là Nguyễn Hữu Đang. Tôi biết Đang từ hồi này. Cụ Hồ nói: Ta sẽ ký với Pháp một tạm ước, nhưng lại muốn đạt được cao hơn một tạm ước. Sẽ có hội nghị, lúc đầu ở Việt Nam (Đà Lạt), sau ở Pháp. Nhờ Ngài xây dựng cho lập trường Việt Nam để đi đấu tranh. Tôi từ chối, nói còn có nhiều người giỏi hơn tôi. Cụ Hồ khẩn khoản: Tôi đã hỏi nhiều anh em, họ đều bảo chỉ có Ngài làm được, xin Ngài về suy nghĩ và giúp cho Chính phủ. (Hồi này cụ Hồ cứ gọi tôi là Ngài!). Đi Đà Lạt là Đoàn Liên hiệp các đảng phái. Trưởng đoàn là Nguyễn Tường Tam. Phó là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh, nhưng khi họp đoàn ở Bắc Bộ phủ thì không thấy hắn đến. Không thuộc đảng phái nào thì có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên và tôi. Lúc tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ nói to: Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găngnhưng không được gãy. Hoàng Xuân Hãn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng không nhắc lại chi tiết quan trọng này, tôi hỏi thì anh bảo quên! Các thành viên của Đoàn ta đều nói thạo tiếng Pháp nhưng để biểu thị là Đoàn đại biểu của một nước Việt Nam độc lập, ta chỉ phát biếu ý kiến bằng tiếng Việt. Có một phiên dịch, nhưng dịch dở quá, Tây không hiểu được, tôi tự động đứng ra dịch thay. Phía Pháp nghe rất khen ngợi. Kết thúc hội nghị, D’Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn Đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô đốc. Có anh em nói: Nó mời thì anh cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói: “Tường là tay trong của Pháp, Tường phản quốc”, Hãn tức, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận mới được dập tắt. Năm 1946, tôi đang cãi ở Hải Phòng thì tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Tôi phải đi đường Nam Định để về Hà Nội, rồi tản cư đi Hà Nam, ở Ngô Khê. Nó đánh Hà Nam, chạy sang Thái Bình, ở Hưng Nhân. Nó đánh Thái Bình, chạy vào Thanh Hóa. Hồi dạy Dự bị Đại học, tôi ở dốc Đu, Thiệu Hóa, bên cạnh là nhà Hồ Đắc Liên, gần nhà Nguyễn Khánh Đàm, anh ruột nhà văn Nguyễn Tuân. Điện Biên Phủ thắng lợi, được về lại Hà Nội. Tôi vinh dự được tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư Phạm. Được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Đại học Sư Phạm thì Đặng Thai Mai làm Giám đốc, tôi làm phó, cùng với Trần Văn Giàu. Tôi vui sướng được dạy Văn học Pháp. Năm 1952, tôi được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á- Thái Bình Dương ở Bắc Kinh. Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa Bình Thế giới ở Vienne. Tại Vienne có cuộc gặp riêng giữa hai đoàn Việt - Pháp. Bên ta có nữ Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiến, bên đoàn Pháp có Raymond Dienne. Xuân Thủy bảo tôi: Anh phải nói vài lời, chứ ngồi nhìn nhau thế này à! Tôi đứng dậy nói: Trong khi máy bay của quân viễn chinh Pháp quần đảo trên bầu trời đất nước chúng tôi thì đêm xuống học sinh chúng tôi vẫn học tiếng Pháp, thưởng thức văn chương của các văn hào Pháp. Đoàn Pháp rất cảm động, họ yêu cầu tôi viết lại để đăng lên báo Bảo Vệ Hòa Bình. Sau đó là đến thời Cải cách ruộng đất. Ở Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam, tự phê bình về các sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo. Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự. Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn. Tôi như thành một người “phạm pháp quả tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa. Từ 1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy vậy, tôi đã lợi dụng thời gian rảnh rỗi này để viết sách, trong đó có cuốn Lý luận giáo dục châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tôi cố ý viết bằng tiếng Việt để lãnh đạo có thể đọc được. Tôi đánh giá rất cao nền Văn học châu Âu, từ Văn học Hy Lạp - La Mã đến Văn học Pháp, từ Montaigne đến Rousseau. Theo tôi, về xây dựng con người ta thiếu cân bằng giữa trí tuệ và tình cảm, về phương pháp tư duy ta nặng về ý chí không tưởng mà nhẹ về duy lý và đầu óc phê phán. Năm 1989, tôi sang Pháp và lưu lại Pháp 4 tháng. Phóng viên Le Monde đến phỏng vấn. Họ muốn tôi lợi dụng cơ hội này để trả thù. Tôi lấy ý “cú đá của con lừa” trong thơ ngụ ngôn của La Fontaine để trả lời, tôi nói: Chỉ có con lừa mới đá con sư tử già, người tri thức đâu phải là con lừa! Họ lại hỏi: Ở Roumanie, Ceausescu đã sụp đô, Việt Nam thì sao? Tôi trả lời: Roumanie là Roumanie, Việt Nam là Việt Nam. Ceausescu thì so sánh thế nào được với Hồ Chí Minh. Trên đất nước Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam là mạnh nhất. Không thể lật đổ Đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng nó phải được tổ chức tại, phải sa thải bọn tham ô. Phải tập lại truyền thống Diên Hồng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Họ lại hỏi: Thế theo ông, bao giờ thì có cách mạng dân chủ ở vệt Nam ? Tôi đọc câu thơ của Paul Valéry: patience, patience, patience dans l’azur! Chaque atome de silence Est sa chance d’un fruit mur! Kiên nhẫn, hãy kiên nhẫn, Kiên nhơn trong trong xanh! Mỗi sát-na yên tịnh Cơ may một quả lành! (Bác sĩ Trần Ngọc Ninh dịch) Ông Phạm Bình, Đại sứ ta ở Pháp hồi đó mời tôi đến thăm Sứ quán, tôi vừa vào, ông ôm hôn nồng nhiệt. Các vị lãnh đạo ở Hà Nội cũng hài lòng”. Hà Nội, tháng 10/2009 __________________________ Hồn Việt chú: Nhân đây, cần nói thêm, cuốn Hồi ký của GS Nguyễn Mạnh Tường do Võ Văn Ái, một phần tử chống đối Việt Nam nhẵn mặt, in và xuyên tạc bản thảo, đã làm GS rất bực, theo lời con gái GS Nguyễn Mạnh Tường. Nguồn: Hồn Việt