Sau “Người đẹp ngủ mê”, mình quyết định sẽ mua cả “Hồ” về. Lúc đầu cũng có phần nhầm lẫn vì tựa đề giống “Hồ” của Banana Yoshimoto (mình vừa review ngày hôm trước), nhưng dẫu có cùng một tên gọi đi chăng nữa, hai tác phẩm này vẫn khác hoàn toàn nhau, viết bởi hai tác giả khác nhau ở hai thời đại khác nhau. Nếu như “Hồ” của Banana chứa một cốt truyện hiện thực kỳ ảo về việc con người đối mặt với tuổi thơ, với quá khứ như thế nào, thì “Hồ” của Kawabata lại là một áng văn u uất về con người thời hậu chiến. Câu chuyện ở “Hồ” bắt đầu bằng việc gã Momoi Gimpei 34 tuổi bước vào nhà tắm (nhà thổ) để tẩy trần sau khi may mắn nhặt được cái túi chứa tận hai trăm ngàn yên vì va phải một cô gái. Trong làn hơi ẩm ướt của nhà tắm, hắn mơ màng nhớ về quãng đời ngày trước của mình, với tuổi thơ ở một làng quê bên hồ trong tình yêu với người chị họ Yayoi, hình mẫu phụ nữ lý tưởng mà hắn vẫn hằng bám víu, dù Yayoi đã bỏ đi lấy chồng từ lâu. Sau thế chiến, hắn thế nào lại thành thầy giáo, và vướng vào lưới tình với cô học trò Tamaki Hisako, có lẽ là người duy nhất từng yêu hắn thật lòng, để rồi cuối cùng cũng vỡ nát. Cả cuốn tiểu thuyết là quá khứ xen lẫn hiện tại trong cuộc đời Gimpei, đau đớn vì mối tình đầu mà trở thành một người đàn ông hèn nhát, kẻ đang tâm bỏ rơi đứa con sơ sinh của mình với một gái điếm, kẻ biến thái theo đuôi chính học trò mình và cô sinh viên hay dắt chó đi dạo bên bờ sông. Nhưng không chỉ thế, với hình ảnh cái hồ làm biểu tượng, cái hồ mờ sương trong ký ức Gimpei không chỉ làm tấm gương phản chiếu hiện tại và quá khứ của mình hắn, mà còn phản chiếu cả số phận người đàn ông lẫn phụ nữ trong cuộc đời hậu chiến. Đàn ông thì có Gimpei hèn nhát, ông già Arita hom hem, cậu sinh viên Mizuno yếu đuối. Phụ nữ thì có cô kỹ nữ cọ chân cho Gimpei trong nhà tắm và cả những cô kỹ nữ khác phải làm công việc buôn hương bán phấn trong nhà thổ chỉ để có một chút gì đó trong cuộc đời, Miyako xinh đẹp nhưng phải sống cuộc đời chim lồng cá chậu với ông già Arita để có tiền, Tamaki Hisako với tình yêu không lối thoát, và đặc biệt Yayoi, người chị họ, mối tình đầu bị cấm đoán và đầy lạnh lùng tàn nhẫn với Gimpei tội nghiệp, khiến hắn không thể nào không khao khát được dìm chết Yayoi dưới làn băng của cái hồ vào mùa đông. Có thể xem “Hồ” là bức tranh thuỷ mặc xám ngắt được vẽ nên bằng màu mực của những con người ấy, ai nấy đều bế tắc trong nỗi bất hạnh của chính mình, dù cố gắng vẫy vùng vẫn không tìm được lối thoát khỏi cái hồ đẫm bi thương ấy. Nhật Bản hậu chiến trong mắt Kawabata Yasunari thật đau lòng biết bao nhiêu. Kawabata Yasunari thật sự là một thiên tài trong việc xoá nhoà ranh giới giữa hư và thực, giữa trắng và đen trong những tác phẩm của mình, mà “Hồ” là minh chứng hùng hồn nhất cho tài năng ấy. Chúng ta có thể vừa khinh ghét vừa thương cảm Gimpei, cũng như coi rẻ và tội nghiệp Miyako cùng một lúc. Nỗi đau quá lớn trong lòng họ khiến mình cảm thấy tim như bị bóp nghẹt, một cách vô thức, trong quá trình đọc cuốn sách này. “Hồ” đẹp, đẹp vì những đau thương tột cùng, đẹp vì những tình yêu đã chết, đẹp vì những lý tưởng đã chết, đẹp vì những giấc mơ đã chết. Tất cả đã chết, theo gót chân Gimpei, khi hắn bỏ mặc tất thảy để trở về ngôi nhà của mình vào phút cuối. Mình thật sự không thể yêu cuốn sách này nhiều hơn được nữa.
Không thiên về tình tiết hay hành động, cuốn tiểu thuyết của đại văn hào Nhật Bản là câu chuyện của những tâm hồn đang kiệt quệ vì bị dày vò bởi sự cô độc. Cuốn tiểu thuyết đưa chúng ta đến với nước Nhật những năm 1950 của thế kỷ trước khi mà cuộc Đại chiến thế giới khinh hoàng đã lùi xa. Làng mạc, thành phố dần được xây dựng lại từ đống đổ nát của bom đạn. Nhưng sự hoang tàn trong tâm hồn những con người bé nhỏ dường như chưa thể nguôi ngoai. Nhân vật chính của tác phẩm là Momoi Gimpei - một gã đàn ông kì quái, ba mươi tư tuổi. Bố mất sớm, từ nhỏ Gimpei phải cùng mẹ đến ở nhờ gia đình bên ngoại và chịu sự ghẻ lạnh và phân biệt đối xử từ họ hàng. Suốt thời thơ ấu, đứa trẻ tội nghiệp đó luôn sợ bị mẹ bỏ rơi. Khi lớn lên, mặc cảm ấy đã biến thành một thói quen có phần “bệnh hoạn” của Gimpei. Hắn ta luôn bám theo những cô gái có vẻ ngoài dịu dàng, bởi họ cho hắn cảm giác như thể được gặp mẹ. Lật giở từng trang sách, người đọc cảm nhận được sự u sầu và nỗi cô đơn dường như thẫm đẫm lên từng con chữ. Không gian của cuốn tiểu thuyết tràn ngập một màu xám xịt của bầu trời mùa đông âm u. Ở đó không chỉ có Gimpei phải chịu số phận bi đát. Miyako là một cô gái trẻ xinh đẹp. Nhưng vẻ đẹp mỹ miều ấy dần héo tàn theo năm tháng bởi số phận đã đưa đẩy cô trở thành vợ bé của Arita - một ông già bảy mươi tuổi không còn chút sinh lực. Miyako như một thứ đồ chơi của Arita. Hằng ngày, cô cứ để mặc ông già ấy nhìn ngắm, vuốt ve, dẫu trong lòng đầy tủi hổ. Miyako giống như con chim hoàng yến được sống trong lồng vàng nhưng không thế cất cao tiếng hót. Một ngày nọ, khi đang đi dạo trên phố, Miyako bị Gimpei bám theo. Cô bất cẩn đánh rơi chiếc túi xách chứa toàn bộ số tiền được đánh đổi bằng cả tuổi thanh xuân. Một người tiếc nuối nhưng không dám đi tìm, một người hối hận nhưng lòng tham không cho hắn ta trả lại chiếc túi. Hai con người, hai tâm hồn cô đơn đến tốt độ cứ thế quẩn quanh theo những suy nghĩ của riêng mình, để những ám ảnh của quá khứ cứ thế phơi bày trong tâm tưởng. Tiểu thuyết Hồ của Kawabata Yasunari. Bằng thứ văn phong chậm rãi, thản nhiên mà buồn tới nao lòng, Kawabata Yasunari đã vẽ nên bức tranh thủy mặc của tâm hồn chỉ bằng một màu duy nhất. Đó là màu xám của nỗi cô đơn. Không chỉ có hai nhân vật trung tâm là Gimpei và Miyako, độc giả có thể cảm nhận sự cô độc ngự trị một cách rõ ràng ở cả trong những tuyến nhân vật phụ như ông già Arita và cô học trò Hisako. Ám ảnh bị bỏ rơi, bị coi thường, hay sự thù hận đều kéo con người ta sợ hãi và cảm thấy cô đơn. Đáng thương hơn, khi sâu thẳm trong tâm hồn những con người cô độc ấy luôn muốn được sẻ chia và an ủi. Họ luôn thèm khát cảm giác an toàn, thèm khát được yêu thương đúng nghĩa, thèm khát được tự do… Nỗi cô đơn như mạch nguồn xuyên suốt tiểu thuyết Hồ của Kawabata Yasunari. Tác phẩm dày không tới 200 trang nhưng vẫn lớp lang và đầy ẩn dụ. Trong giọng văn trầm buồn đó phảng phất cả cái ma mị, có phần hơi man rợ của cái chết. Ám ảnh về nỗi cô đơn đã đưa tác giả vào một trường siêu tưởng. Ở đó, có những lúc ta có cảm giác như hiện thực đang bị tước bỏ. Kết hợp giữa tư duy và ngôn ngữ, dường như tác giả còn sáng tạo bằng cả vô thức. Sống ở thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và tiến trình hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ nhưng văn chương của Kawabata Yasunari vẫn đậm chất truyền thống. Ta thấy được hình ảnh của một nước Nhật cổ kính thấp thoáng trong sáng tác của ông. Tiểu thuyết Hồ được đăng dài kỳ trên tạp chí Shincho từ năm 1954 và xuất bản năm 1955 đánh dấu sự chín muồi trong sáng tác của nhà văn. Kawabata Yasunari sinh năm 1899 tại Osaka. Ông nhận giải Nobel Văn chương vào năm 1968, đúng dịp kỷ niệm 100 năm cuộc Duy tân Minh Trị. Kawabata Yasunari là văn nhân Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ ba nhận giả thưởng danh giá này sau Rabindranath Tagore và Shmuel Yosef Agnon. Ông đã tự tử vào năm 1972. Thụy Oanh