KÝ SỰ PHỤC DỊCH Ở AN NAM

Tin đăng trong 'Sách hay, tài liệu hay' bởi admin, Cập nhật cuối: 14/09/2018.

Tags:
  1. admin

    admin Administrator Staff Member

    Tham gia :
    16/04/2018
    Bài viết:
    14.160
    Lượt thích:
    147
    Điểm thành tích:
    124.698
    [​IMG]

    Tập sử liệu độc đáo về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong giữa thế kỷ XVII, với những thông tin bổ ích cần được quan tâm nghiên cứu và thảo luận kỹ càng.

    KÝ SỰ PHỤC DỊCH Ở AN NAM

    Nguyên tác: An Nam cung dịch kỷ sự, tập hồi ký của Chu Thuấn Thủy (1600), một trí thức Trung Hoa đời Minh.

    Người dịch dựa theo 3 ấn bản An Nam cung dịch kỷ sự. (1) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (tập Thượng) do Chu Khiêm Chi chỉnh lý (Trung Hoa Thư cục, Bắc Kinh, 1981); (2) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (quyển 1) do Dương Gia Lạc chủ biên (Thế giới Thư cục, Đài Bắc, 1956); (3) ấn bản do Trần Kinh Hòa hiệu đính và in lại trong bài “Chu Thuấn Thủy ‘An Nam cung dịch kỷ sự’ tiên chú” đăng trong tập san Hương Cảng Trung văn Đại học Trung Quốc Văn hóa Nghiên cứu sở Học báo (1968).

    Chu Thuấn Thủy người Dư Diêu (cùng quê với Vương Dương Minh) tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1600, vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Tên thật của Chu là Chi Du, hiệu là Thuấn Thủy, tổ tiên hình như có liên hệ với Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.

    Trong 5 lần đến Đàng Trong, thời gian Chu lưu trú lâu nhất là khoảng 4 năm từ năm 1654 cho đến năm 1658. An Nam cung dịch kỷ sự là “hồi ký” của Chu viết về những sự việc xảy ra vào năm 1657 trong khoảng thời gian hai tháng rưỡi kể từ khi Chu bị quản thúc ở Hội cho đến khi được cho về lại Hội An. Vị “Quốc vương” mà Chu thường nhắc đến trong An Nam cung dịch kỷ sự là chúa Nguyễn, hay nói rõ hơn là chúa Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền), người cai quản Đàng Trong từ năm 1648 đến năm 1687.

    Về học vấn và tư tưởng, Chu đặc biệt chú trọng lối học thực hành (thực học) theo truyền thống Nho học của miền Giang-Chiết (Giang Tô và Chiết Giang). Chu xem những lối học không mang lại lợi ích cho đời, cho dầu hào nhoáng đến đâu chăng nữa, cũng không khác gì đồ bỏ. Trong bức thư trả lời câu hỏi của Andô Shuyaku về “phương pháp đọc sách và viết văn”, Chu đáp: “Điều đáng quý trong học vấn là thực hành. Nhan Hồi tuy học một biết mười, nhưng điều quan trọng là ông đứng đầu về đức hạnh”. Cái thực học của Chu so với cái học để thi cử rỗng tuếch ở Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ thì phải nói là cách xa nhau một trời một vực.

    2. Nội dung An Nam cung dịch kỷ sự

    Chu nhận được hịch chiêu mộ người “biết chữ” của “Quốc vương” và ra trình diện ngày 3 tháng 2 năm 1657, Chu bị tống giam và bị đối đãi như “tù giặc nước ngoài bị bắt sống” (khấu lỗ). Sau đó, khi được dẫn đến nha môn, quan ra lệnh cho Chu làm một bài thơ khẩu hứng rồi viết lên giấy. Chu khăng khăng không chịu làm thơ, dùng bút giải thích là vì “cảnh nước mất nhà tan” và “không cam bím tóc” theo nhà Thanh nên Chu mới trốn sang Nước ta, “ruột gan nóng như lửa đốt, làm thơ sao đặng”.

    Khi biết Chu là “cống sĩ” (giống như “trưng sĩ”, nhưng trưng sĩ là cách gọi tổng quát), quan có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

    Lúc ở Hội An, Chu thuê nhà chung với ba người Nhật. Chủ nhà là Gombê (Quyền binh vệ), cũng là người Nhật. Sáng sớm trước khi bị dẫn ra Dinh Cát, Chu tắm gội sạch sẽ, rồi căn dặn cặn kẽ người nhà phải làm gì khi trong trường hợp bị giết mà không về lại Hội An. Khi từ Dinh Cát về lại Hội An thì đồ đạc trong phòng Chu bị kẻ trộm vào lấy sạch, không còn gì cả. Trong khi hàng xóm láng giềng ai cũng đinh ninh chủ nhà là thủ phạm, Chu vẫn một mực không chút tỏ ý nghi kỵ Gombê. Sau khi điều tra biết Gombê là người vô tội, lúc bấy giờ hàng xóm mới khen Chu không phải là người tầm thường.

    Sau đó đến ngày 19 tháng 2, Chu được thư của Chúa mời Chu ra giúp, Nhưng đối với Chu, lúc này thì đã cạn tàu ráo máng nên Chu đã từ chối lời mời của chúa Nguyễn.

    An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận-Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan.

    Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa.

    Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ, tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học.

    Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau:

    “[... Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”.

    Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm.
     
    Đang tải...
  2. admin

    admin Administrator Staff Member

    Tham gia :
    16/04/2018
    Bài viết:
    14.160
    Lượt thích:
    147
    Điểm thành tích:
    124.698
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]



    [ Góc Sách]
    Giới thiệu tóm tắt:
    AN NAM CUNG DỊCH KỶ SỰ
    Tác giả: Chu Thuấn Thuỷ.
    Bản dịch: GS. Vĩnh Sính.
    • Tác giả:
    CHU THUẤN THUỶ (1600-1682), ông người tỉnh Chiết Giang - Trung Quốc, chán nản thời cuộc, nên vào giữa Tk XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm chính quyền, nhiều trung thần nhà Minh không chấp nhận thần phục, nên bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam, một số nước ĐNA khác, nhằm tìm cơ hội khôi phục nhà Minh.
    Chu Thuấn Thuỷ là người có tài được tiến cử ra giúp triều đình (trưng sĩ). Nhưng phải chạy bôn ba khắp các nơi, phục dịch cho phủ chúa Nguyễn ở Thuận - Quảng, (vào An Nam 5 lần từ 1646 đến 1658) và viết tập AN NAM CUNG DỊCH KÝ vào năm 1657, đến Nhật Bản 7 lần. Chu Thuấn Thuỷ cũng quyết định ở lại MiTo, đem sở học và tài trí của mình đóng góp cho Mitsukuni [tiếng tăm hơn cả Shôgun (tướng quân)], cũng là để đền ơn tri ngộ tấm lòng đối đãi hết lòng của Mitsukuni.
    • AN NAM CUNG DỊCH KỶ SỰ:
    Đây là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt, một học giả có tầm cỡ, người có chí kinh luân hằng ấp ủ “bài Thanh phục Minh”.
    Chu Thuấn Thuỷ cư ngụ vùng đất Thuận Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm, từ 1646 đến 1658, lối nhận định về Xã hội, Chính trị Đàng Trong , một bức tranh Đàng Trong thật rõ nét, đặc sắc và mới mẻ thế kỷ XVII. (Chủ yếu là ở Thuận Hoá & Hội An).
    [... Đột nhiên có hịch của An Nam Quốc Vương (Nguyễn Phúc Tần, tức là chúa Hiền (1648-1687), chiêu vời kẻ hèn này. Và không thể không đến triều đình An Nam để biện bạch.
    Viên Cai Phủ vào năm Kỷ Dậu (1657), nhận lệnh Quốc vương chiêu mộ người biết chữ, nhưng lại dập đi không công bố. Đầu tháng sau, đột nhiên lại bắt gian tạm thời những người này như giặc nước ngoài (khi đó, theo ghi chép của Lê Quý Đôn: Phía hữu xứ Quảng Nam, lại thông với các nước phiên, về đường biển thì cách tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông không đến 3-4 ngày, cho nên thuyền buôn hội tụ ở đấy. Khi họ Nguyễn cát cứ, tiến hành thu được Thuế thuyền rất nhiều. Đặt cai tàu, tri tàu mỗi chức 1 viên, cai bạ tàu, tri bạ tàu, cai phủ tàu, ký lục tàu, thủ tàu nội, mỗi chức 2 viên, cai phòng 6 người, lệnh sử 30 người, toàn súng binh 50 người, lính tàu 4 đội 70 người, thông sự 7 người).
    Chu Thuấn Thuỷ đến Chiêm Thượng trong 2 ngày liền (vào giữa Tk XVII, lúc ông ở Thuận - Quảng, người ngoại quốc gọi Quảng Nam là Chiêm, còn Dinh của chúa Nguyễn ở Quảng Nam gọi là Dinh Chiêm. Theo Chen Ching-ho, Chiêm Thượng là Chiêm Trấn Thượng, tức Dinh Chiêm) vào gặp Ông Nghè Bạ & các nha môn nhiều bận trình lá thư triều đình đặc biệt vời làm Ân Cống sinh.
    Thế rồi, một quan hầu, kêu lạy ra mắt khi gặp Quốc Vương (hoặc Cai Tàu) nhưng ông không nghe. Quốc Vương sai quan hầu túm áo Du lôi ra phía Tây. Chu nói: Các ông theo tôi làm gì? Tôi may mắn lắm là bị bắt giam, ở nước này bắt giam người sẽ bị đòi tiền công khai, và số tiền lớn lắm, tôi chỉ muốn chết. Nếu như vậy thì công chuyện sẽ minh bạch.
    Tháng 2, một buổi sáng, Du nhờ Rikugo (lục ngũ) lo giúp việc nhà: Bán hết tất cả đồ trong nhà, hoàn lại cho Yazaemon (Di Tá Vệ Môn) 40 lượng 8 tiền Bạc, chủ nhà Gombê (quyền Binh Vệ) 30 lượng Bạc, còn lại dùng làm lộ phí. Trong phòng có sắc chiếu của hoàng đế, phải giữ cẩn thận đem sang Nhật.
    Tháng 4, được phong Phó sứ, kiêm Binh bộ Lang trung. Nhưng ông không màn.
    Tháng 5, 1657 Ân cống sinh Chu Chi Du.
    Nhiều ngày ông bị thổ huyết nhưng quyết không để cho tinh kỳ rơi vào tay nước dưới (hạ quốc). Cảm thấy đau đớn.
    Ngày nay, có người Trung Quốc, cỡi mũ của triều đình mà để tóc đuôi chuột, vận áo đơm khuy nút trái, tay áo dài kiểu móng ngựa ...]
     

Chia sẻ trang này