Nhượng Tống (1904-1949), tên thật là Hoàng Phạm Trân, vì bút danh Nhượng Tống nên còn được gọi là Hoàng Nhượng Tống. Ông là nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam. Ông là người làng Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân sinh ông là Hoàng Hồ, thi đỗ tú tài đời nhà Nguyễn, nổi tiếng chống Pháp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của ông sau này. Ngoài người cha ruột, ông còn làm con nuôi ông Phạm Bùi Cẩm ở phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Sinh ra trong một gia đình Nho học, nên Nhượng Tống được học chữ Hán ngay từ nhỏ, sau mới tự học thêm chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Mặc dù học lực rất uyên bác, nhưng ông không có một văn bằng nào cả. Quá Trình Hoạt Động Năm 1921, báo Khai hóa ra đời, đã thấy ông có bài đăng trên báo ấy. Kể từ đó, ông lần lượt viết cho các báo: Nam thành, Thực nghiệp dân báo, Hồn cách mạng, Hà Nội tân văn... Năm 1924, ông làm trợ bút cho tờ Thực nghiệp dân báo ở Hà Nội. Cuối năm 1926 hai anh em nhà giáo là Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài thành lập Nam Đồng thư xã trên đường Ngũ Xã (Hà Nội), chuyên xuất bản các sách tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước. Sau đó, Nhượng Tống đến tham gia, và trở thành một thành viên nòng cốt. Thời gian ông viết và dịch sung sức nhất là khoảng thập niên 1940 với những truyện dịch cũng như tác phẩm khác. Tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học tham gia Nam Đồng thư xã và thành lập chi bộ để tiến tới thành một đảng cách mạng. Song khác với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Nguyễn Thái Học... Nhượng Tống chủ trương "hòa bình cách mạng", tức không ủng hộ tư tưởng "bạo lực cách mạng", dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc." Ngày 25 tháng 12 năm 1927, Nhượng Tống cùng với các đồng chí thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng tại làng Thể Giao, Hà Nội. Ông là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ với vai trò trọng yếu trong việc biên soạn văn thư tuyên truyền và huấn luyện đảng viên. Năm 1929, theo kế hoạch của Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống vào Huế gặp Phan Bội Châu, nhưng khi trở ra khi thì bị Pháp đón bắt. Hội đồng đề hình tuyên án ông 10 năm tù rồi đày ra Côn Đảo mãi đến năm 1936 mới được tha, nhưng vẫn chịu sự quản thúc tại quê nhà. Khi ông đang ở nhà lao Côn Đảo, thì các đồng chí của ông tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng bị thực dân Pháp đàn áp và khủng bố. Thời Cuộc Tao Loạn Sau Cách mạng tháng Tám, vào tháng 12 năm 1945, ba đảng phái là: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng liên minh thành Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam, rồi cùng tham gia vào Chính phủ Liên hiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, Pháp tái chiếm liên bang Đông Dương, thì Chính phủ Liên hiệp Việt Nam tan vỡ. Năm 1947, hết thời gian bị quản thúc, Nhượng Tống trở lại Hà Nội (1947), rồi cùng với một số đồng chí tái tổ chức lại hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng tại một số vùng do quân Pháp kiểm soát. Ngày 17 tháng 2 năm 1947, Việt Nam Quốc dân đảng tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc, chống lại chính quyền Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo Đại, thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm cố vấn cho Tổng trấn Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng, nên đầu năm 1949, ông lặng lẽ trở về hành nghề thầy thuốc Bắc tại 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội. Ngày 8 tháng 11 năm 1949, Nhượng Tống bị công an mật Việt Minh ám sát tại Hà Nội vì bị cho là phản quốc. Tác phẩm • Hai Bà Trưng, đệ nhất anh thư (1926) (?) • Trưng Vương, Hà Nội: Nam Đồng thư xã, 1927 • Đời trong ngục, Nhà xuất bản Văn hóa mới, 1935 • Lan Hữu, Hà Nội: Nhà in Lê Cường, 1940, tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, có tính tự truyện • Nguyễn Thái Học, Hà Nội, Tân Việt, 1945 (in lần 2: 1949, lần 3, 1956, lần 4: 1973 đêu do Tân Việt tại Sài Gòn; tái bản sau 1975: Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty Nhã Nam, 2014) (hồi ký) • Tân Việt cách mệnh đảng, Việt Nam thư xã, 1945 • Hỗ trợ thảo luận, tác giả xuất bản, Tân Việt tổng phát hành, 1945 • Treo cổ Hoàng Diệu • Phất cờ nương tử • Hoa cành Nam, Sài Gòn: Khai Trí, 1964, tập hợp những bài viết của Nhượng Tống từ 1945 và bạn bè viết về ông sau khi ông mất • Ngoài ra, ông còn sáng tác một số bài thơ trong đó có những bài đầy khí khái. Tác Phẩm Dịch • Trang tử, Nam Hoa kinh, Hà Nội: Tân Việt, 1945 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1962; tái bản sau 1975: Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001) • Khuất Nguyên, Ly tao, 1944 (in lại trong: Khuất Nguyên, Sở từ, Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch, Hà Nội, Nhà xuất bản Văn học, 1974) • Thơ Đỗ Phủ, Hà Nội: Tân Việt, 1944 (tái bản sau 1975: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1996) • Sử ký Tư Mã Thiên, Hà Nội: Tân Việt, 1944 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1964) • Vương Thực Phủ, Mái Tây (Tây sương ký), Hà Nội: Tân Việt, 1944 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt; in lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1963; tái bản sau 1975: Nhà xuất bản Văn học, 1992; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1999) • Tào Tuyết Cần, Hồng lâu mộng, 1945 • Lão tử, Đạo đức kinh, 1945 • Khổng tử, Kinh Thư, Sài Gòn: Tân Việt, 1963 (tái bản sau 1975: Nhà xuất bản Văn học, 2002) Văn dịch ký bút danh Mạc Bảo Thần: • Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Tân Việt, 1945 (tái bản: Sài Gòn: Tân Việt, 1964) • Nguyễn Trãi, Lam Sơn thực lục, Tân Việt, 1945 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1949; lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1956) Nhượng Tống đặc biệt yêu quý Đỗ Phủ, như ông tự nhận: Tôi biết đọc thơ từ thuở nhỏ, Trong thơ riêng thích thơ Đỗ Phủ. Lại do ưu tư vì vận nước và hoạt động cách mạng gian truân, mang mối đồng cảm với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ... nên ông dịch Ly tao, những vần thơ hiện thực của Đỗ... hết sức thành công, tái tạo được hồn thơ của nguyên tác. Bàn về sự nghiệp văn chương của ông, nhà văn Vũ Ngọc Phan đã khen rằng: "Nhượng Tống có tâm hồn thi sĩ, nên quyển "Lan Hữu" gần như là một tiểu thuyết tả một thứ ái tình lý tưởng. Còn thơ ông có cái đặc sắc là bao giờ cũng già giặn và thiên về tình cảm rất nhiều...Ông quả là một nhà văn tài hoa, lãng mạn và rất sở trường về dịch thuật".[9] Thông tin thêm Ông có người em trai út là Hoàng Trung Tích, là Giám đốc ty Giáo dục Hà Nam Ninh. Ông là anh họ của Chu Thiên tức Hoàng Minh Giám, còn Hoàng Minh Chính (là bộ đội hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, tác giả phần lời bài hát " Hôm qua em tới trường") là con cả của người em trai thứ hai là Hoàng Văn Huống, gọi Nhượng Tống là bác.
Cuốn sách Nhượng Tống - bi kịch con người giữa những xung đột của thế kỷ XX của tác giả Yên Ba vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành là một chuyên khảo đáng chú ý. Nhà dịch thuật kỳ tài Cuộc đời hơn 40 năm sống trên cõi thế của Nhượng Tống (tên thật Hoàng Phạm Trân) ghi dấu ấn riêng trong nửa đầu thế kỷ 20. Trước hết, Nhượng Tống là một trí thức yêu nước. Ở tuổi 20, khi đất nước VN đã mất chủ quyền và trở thành thuộc địa của nước Pháp thực dân, ông đã cùng những trí thức trẻ đương thời sáng lập Việt Nam quốc dân đảng để đấu tranh giành độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, những thủ lĩnh của phong trào người bị chém đầu, người bị lưu đày ra tận Côn Đảo. Nhượng Tống chịu án 5 năm lưu đày cấm cố ngoài biển khơi, rồi chịu tiếp 5 năm quản chế tại quê nhà. Trong thời gian bị quản chế, với vốn kiến thức Hán học, ông trở thành dịch giả tài hoa, đã dịch và xuất bản 5 tác phẩm trong “Lục tài tử thư” của văn học sử kinh điển Trung Hoa là: Nam hoa kinh (Trang Tử) , Ly tao (Khuất Nguyên), Sử ký (Tư Mã Thiên), Thơ Đỗ Phủ và Tây sương ký (Vương Thực Phủ). Đây là những tác phẩm đồ sộ của văn học sử kinh điển Trung Hoa, qua ngòi bút dịch thuật kỳ tài của Nhượng Tống đã đến với bạn đọc bằng một văn bản tiếng Việt “duyên dáng, uyên bác và đẹp đẽ” như đánh giá của Yên Ba. Nhượng Tống còn là tiểu thuyết gia với tác phẩm duy nhất mang tên Lan Hữu được Lưu Trọng Lư giới thiệu là “cuốn tiểu thuyết tình không hơn, không kém” và “cuốn sách của mọi người”, “tác giả đã cho nó một sức mạnh huyền diệu khiến cho ta không thể ngừng lại ở một quãng nào ở trên quyển sách”. Cuộc đời Nhượng Tống bị bao phủ bởi rất nhiều những tồn nghi, còn với sự nghiệp văn chương của ông, sự đánh giá khá khác biệt Yên Ba Nhưng đúng như tác giả Yên Ba viết: “Cuộc đời Nhượng Tống bị bao phủ bởi rất nhiều những tồn nghi, còn với sự nghiệp văn chương của ông, sự đánh giá khá khác biệt”. Cho đến nay, trong các bộ giáo trình văn học sử Việt Nam được giảng dạy ở các trường đại học đều không nhắc đến tên tuổi và vị trí của Nhượng Tống dù dưới bất cứ phương diện nào: một tiểu thuyết gia hay dịch giả, đó là chưa nói đến một nhà văn hóa. Tuy nhiên, qua dòng chảy thời gian hơn 70 năm qua, khi sương đầu ngõ đã tan, mây cuối trời đã vén, những đóng góp của tổ chức Việt Nam quốc dân đảng được lịch sử đánh giá khách quan, nhiều thủ lĩnh của tổ chức này như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp... là những người đã hiên ngang lên đoạn đầu đài để tạo nên “Tiếng thét Yên Bái” thì những tác phẩm của Nhượng Tống - Hoàng Phạm Trân cần được đánh giá công tâm, khách quan. Xóa đi lớp sương mù Tác giả Yên Ba đã đồng cảm với người khuất bóng qua hơn 300 trang sách được chia thành 3 phần: Nhượng Tống - bí ẩn và bi kịch; Những “tài tử thư” của Nhượng Tống; và Nhượng Tống - một con người tài hoa. Trước những tư liệu ít ỏi đến kinh ngạc về số phận một con người được tác giả cho là “kỳ lạ vào hàng bậc nhất trong lịch sử văn học hiện đại nước Việt”, Yên Ba đã đi tìm Nhượng Tống. Từ cái duyên chơi sách để “từ sách đi tìm người”, Yên Ba đã thấy ở Nhượng Tống “một người hoạt động chính trị lão luyện từ khi còn rất trẻ, bản thân tự nếm trải qua vô vàn những biến cố lay trời chuyển đất trong lịch sử dân tộc”. Cuốn sách ra đời giúp bạn đọc có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan về Nhượng Tống - Hoàng Phạm Trân. Sinh tại làng Phú Khê, huyện Ý Yên (Nam Định), ở tuổi 20, Hoàng Phạm Trân với bút danh Nhượng Tống là một trong những lý thuyết gia của Việt Nam quốc dân đảng. Chính ông là người góp phần quan trọng đưa lý thuyết “Tam Dân chủ nghĩa” của Tôn Trung Sơn từ Trung Quốc về Việt Nam và sau đó trở thành tôn chỉ của Việt Nam quốc dân đảng. Dù tổ chức yêu nước này chủ trương bạo động nhưng Nhượng Tống lại giữ quan điểm khá ôn hòa. Chính vì vậy, trước khi Việt Nam quốc dân đảng khởi sự bằng cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã có dự định thủ tiêu Nhượng Tống và Vũ Hiển - một thành viên cùng quan điểm ôn hòa với ông. Tư tưởng này còn tiếp tục thể hiện ở cuốn sách Hỗ trợ thảo luận được Nhượng Tống hoàn thành tháng 9.1943 và nhà in Tân Việt phát hành năm 1945. Chỉ tiếc rằng những xung đột và biến động chính trị từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 khiến Nhượng Tống trở thành phần tử đối lập khi ông làm Bí thư cho Nguyễn Hải Thần - lãnh tụ Việt Nam cách mệnh Đồng minh hội (1945 - 1946), tiếp đó là làm cố vấn cho Tổng trấn Bắc Kỳ Nghiêm Xuân Thiện (1948 - 1949). Nhượng Tống đã ra đi một cách bí ẩn trong cuộc ám sát năm 1949 mà đến nay, theo Yên Ba, các nhà nghiên cứu chưa xác quyết “thủ phạm là ai”. Qua chuyên khảo này, bạn đọc lần lượt xóa đi những lớp sương mù và tồn nghi về cuộc đời Nhượng Tống. Qua lời kể và xác nhận của người con gái duy nhất của nhà văn Nhượng Tống, là nhà giáo Hoàng Lương Minh Viễn, với tác giả Yên Ba, bạn đọc được biết Nhượng Tống - Hoàng Phạm Trân sinh năm 1906 (Bính Ngọ) chứ không phải niên biểu 1897 hay 1904 như trước đây. Đặc biệt, qua thông tin trên tờ báo Cải tạo số 67 (ra ngày 10.9.1949) và số 68 (ra ngày 17.9.1949), tác giả Yên Ba đã xác định chắc chắn ngày mất của Nhượng Tống là 8.9.1949, chứ không còn mơ hồ như trước đây. Nguồn: https://thanhnien.vn/nhuong-tong-mot-so-phan-ky-la-post1074453.html