Có lẽ câu chuyện về người đẹp Tây Thi và kết cục bi thảm của Ngô vương Phù Sai xưa nay luôn được các thi sĩ cổ kim để tâm khai thác. Chỉ tính riêng số lượng các bài thơ xưa có lẽ chưa dễ thống kê được. Chỉ trong hồi 83 – Đông Chu Liệt Quốc, sau khi Câu Tiễn diệt nước Ngô, khiến Phù Sai phải tự vẫn, ba con phải đầy ra Long Vĩ Sơn, tác giả tiểu thuyết đã dẫn trích liền năm bài thơ, đủ cả các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh. Đó là: 1. Bài thơ “Đăng Cô Tô đài hoài cổ” (登姑蘇台懷古) của Trương Vũ (張羽) đời Minh.: Đài hoang dạo bước góc thành tây; Lối cũ thê lương, ngập cỏ cây. Quạ tối, tường rêu kêu mấy dịp; Hổ vàng, mồ nát mất bao ngày. Thái Hương đường dứt, hươu nai dạo; Hưởng Tiệp hiên tàn, gai góc dày. Muốn viếng Ngũ Viên đâu đó tá? Khói mờ trăng lặn dạ khôn khuây. Nguyên văn chữ Hán: 荒台獨上故城西,輦路淒涼草樹迷。 廢塚已無金虎踞,壞牆時有夜烏啼。 採香徑斷來麋鹿,響屧廊空變蒺藜。 欲吊伍員何處是,淡煙斜月不堪題。 1.2. Bài thơ “Tô Đài điếu cổ” (蘇台弔古) của Dương Thành Trai楊誠齋 (Dương Vạn Lý) đời Tống: Vờn mây bốn tháp hiện lưng trời; Tan tuyết, non ngàn vẻ mới tươi. Nghe nói, trông xa trăm mấy dặm; Cớ chi chẳng thấy sáu ngàn người? Nguyên văn chữ Hán: 插天四塔雲中出, 隔水諸峰雪後新。 道是遠瞻三百里, 如何不見六千人? 3. Thơ vịnh sử của Hồ Tằng胡曾tiên sinh đời Đường: Ngô vương cậy bá, tỏ hùng tài; Tham uống Cô Tô chén rượu say; Nào biết Tiền Đường vừng nguyệt sáng; Đưa quân Việt đến tối hôm nay. Nguyên văn chữ Hán: 吳王恃霸逞雄才, 貪向姑蘇醉綠醅。 不覺錢塘江上月, 一宵西送越兵來。 4. Bài thơ “Đăng Cô Tô đài” (登姑蘇台) của Tát Đô Thích (薩都剌) đời Nguyên: Xương Môn dương liễu mướt xuân phong; Trước điện hoa tàn giọt lệ hồng Tơ liễu năm năm bay ngập đất; Hành nhân nào thấy Quán Oa Cung. Nguyên văn chữ Hán: 閶門楊柳自春風, 水殿幽花泣露紅。 飛絮年年滿城郭, 行人不見館娃宮。 5. Một bài trong chum năm bài thơ “Quán Oa cung hoài cổ” (館娃宮懷古) của Bì Nhật Hưu (mà trong sách ghi là của Lục Quy Mông – Nhẽ vì hai ông này đi cặp với nhau.) đời Đường: Giữa tối, Oa Cung hóa chiến trường; Máu tanh nhuộm đẫm át mùi hương. Nến tàn Tây tử châm chăng kịp; Để khóc quân vương lệ mấy hàng. Nguyên văn chữ Hán: 半夜娃宮作戰場, 血腥猶雜宴時香。 西施不及燒殘蠟, 猶為君王泣數行。 (Châu Hải Đường )