PHÙNG CUNG- NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN, NHÂN VẬT “PHẢN ĐỘNG VÀ NGOAN CỐ NHẤT” CỦA NHÂN VĂN GIAI PHẨM (theo Ng

Tin đăng trong 'Sách hay, tài liệu hay' bởi admin, Cập nhật cuối: 11/10/2018.

  1. admin

    admin Administrator Staff Member

    Tham gia :
    16/04/2018
    Bài viết:
    14.267
    Lượt thích:
    186
    Điểm thành tích:
    125.876
    [​IMG]

    Khổ lớn. Có áo ngoài. Sách mới, đẹp. Giá 58k

    Tuyển tập thơ (cả những bài thơ khốc liệt trong tập Trăng Ngục đựơc viết trong tù từ 1961-1972) và truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” đăng trên đăng trên Nhân Văn số 4 năm 1956, cùng những bài viết của những người bạn chung thủy cùng thời, những gương mặt văn nghệ phản kháng lẫy lừng của Nhân Văn Giai Phẩm: Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Phùng Quán.

    PHÙNG CUNG- NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN, NHÂN VẬT “PHẢN ĐỘNG VÀ NGOAN CỐ NHẤT” CỦA NHÂN VĂN GIAI PHẨM (theo Nguyễn Hữu Hiệu)

    Ngày 19 tháng Chạp năm Canh Tý 1961. Công an vây kín ngõ, xồng xộc vào nhà, lục soát, dầy xéo lung tung, tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ. Phùng Cung bị đưa vào Hỏa Lò Hà Nội.
    Sau đó, ông bị đưa đi biệt giam qua các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Kai) từ đầu 1961 đến cuối 1972. Suốt trong mười một năm bị biệt giam, Phùng Cung bị lao nặng và nhiều bệnh trầm kha khác. Khi được phóng thích ông vẫn bị quản chế rất chặt tại địa phương.
    Khi làn sóng Dân chủ đích thực -giấc mơ đời của Phùng Cung- dâng lên de dọa nhận chìm Liên Xô "Thành đồng của Cách Mạng" thì Phùng Cung không được làm "bất cứ việc gì liên quan đến chữ nghĩa" kể cả việc làm gia sư. Đều đặn hàng tuần Công an đến nhà thăm hỏi sức khoẻ, ngồi ì trong nhà khiến không ai dám bén mảng tới. Đông Âu sụp đổ, hình thức quản chế cũng theo đà "đổi mới" theo, nghiã là Công an vẫn đến thăm hỏi như xưa nhưng nhẹ nhàng và ít thường xuyên hơn.
    Hiện Phùng Cung đang sống lây lất với gia đình tại một căn nhà âm u, lụp xụp tại vùng Quần Ngựa ngoại thành cũ". (Nguyễn Hữu Hiệu, Phùng Cung, Khởi Hành, Bộ mới số 1, tháng 11/1996, trang 7).
    “... rồi ông đứng lên mở ngăn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm.” Phùng Cung trầm ngâm: “Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà. Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng chú cười hỏi: ‘Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ nữa à?’ Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có "chuyện gì" trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc.”
    (Ngô Minh)

    Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả lại tự do, việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn"
    (Phùng Quán).

    “Tôi mến và phục Phùng Cung ngay từ khi được đọc truyện “Con ngựa già cuả Chuá Trịnh” đăng trên báo Nhân Văn. Trong tất cả các bài văn, bài thơ in trên tờ Nhân Văn, trong các tập giai phẩm Mùa Xuân, Muà Thu, Mùa Đông tôi thấy “Con ngựa già của Chuá Trịnh” là đặc sắc nhất, về nghệ thuật cũng như về nội dung. Nó vừa thâm trầm, vừa tinh tế đúng như con người anh. Nó còn điểm đúng huyệt cuả Đảng. Chính vì vậy, Đảng đã căm giận bỏ tù anh không xét xử hơn muời hai năm.
    ......
    Đảng không thể không trừng trị nặng anh là vì anh đã dám nêu bật lên một sự thực nhục nhã: Văn nghhệ sĩ, trí thức, toàn bộ dân tộc, giống như con ngựa già của Chuá Trịnh, bị Đảng gắn vào hai bên mắt hai cái lá đa bằng da, chỉ được nhìn thẳng một hướng hạn hẹp, trời mây, sông núi, hoa lá..không được thấy cái gì hết! “
    (Nguyễn Chí Thiện)

    “Con ngựa già của chúa Trịnh" là một tác phẩm đặc sắc, đầy tính ẩn dụ, viết về con thần mã Kim Bông của lão Nông ở Sơn Tây, nó có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào Kim Bông cũng đứng đầu. Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù luyến tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. "Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long". Về kinh, Kim Bông trở thành con vật sủng ái của chúa, chuyên kéo xe hầu nhà chúa. Sống trong nhung lụa, nó được ngự trong mã đài ngày ngày chỉ có việc ăn và tắm. Nó được nhà chúa ban áo mão cân đai, đặc biệt là cái mũ cánh chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nhìn thẳng về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mãnh ngày xưa, nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao nhiêu năm bị che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choàng váng, chân không phóng được nữa. Thần mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã vật xuống đất, đứt ruột mà chết. Kim Bông tượng trưng cho những thành phần tài năng của đất nước, nhưng khi đã một đời úp mặt phục vụ thế quyền để tìm bổng lộc thì đều trở thành những con ngựa già, vô dụng.
    Là một trong những truyện ngắn hay nhất của thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, "Con ngựa già của chúa Trịnh" mang tính chất ẩn dụ tế nhị kín đáo chứ không đả phá trực tiếp như một số những sáng tác thơ văn thời đó. Phải chăng vì nó mà tác giả đã phải trả nợ 12 năm tù, hay vì những lý do khác, trải dài trong thân thế, tài năng và nhân cách sống của Phùng Cung?
    Tập thơ Trăng ngục biểu hiệu cho chiều hướng tư tưởng đối lập đầy chất bất khuất, tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, "có chất thép", như những mũi dao nhọn đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, chọc thủng bức tường tù tội, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình.
    Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 61. Nhà thơ ví chế độ cực quyền như biển:
    Biển cả khoác triều phục đại dương
    Hợm mình - uy nghi đồ sộ
    Song đòi phen
    Nghiêng ngửa- đáng thương (...)
    Hỡi biển cả !
    Diện tuy rộng
    Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
    Lòng tuy xanh - sâu
    Xanh sâu đầy mặn chát....
    Nộ cuồng sóng vỗ
    Trống trải bơ vơ
    Chiều quả phụ
    Bình minh vô vọng phương mờ...
    Ôi! Bao yên lặng thanh cao
    Ðều chìm
    Trong thét gào man rợ...
    Ðối diện với một thế quyền vũ bão như thế, con người là gì? Phùng Cung trả lời:
    Biển cả mênh mông
    Như biển cả
    Trước mắt trẻ thơ
    Mỗi tinh cầu
    Chỉ là chấm nhỏ
    Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
    Lời thơ hào hùng bầy ra trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là cái thế quyền lồng lộng, khoác triều phục đại dương, mênh mông như biển cả, sẵn sàng vùi sâu mọi sinh linh, nhưng trước mắt đứa bé, thế quyền lồng lộng ấy là gì?
    -Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không, bởi vì, dưới mắt trẻ thơ: "mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa xanh".
    Và đối với người lớn - người lớn ở đây là những con người bất khuất, trải nhiều đau khổ, đã chịu những đè nén nhục nhằn, nhưng không hề quy phục - thì họ làm gì?
    Thì nhắm mắt
    Thì bưng tai
    Nhưng phải đâu khiếp sợ
    Chỉ điếc đui vừa đủ
    Để làm ngơ.
    Giọng thơ hào hùng, phù hợp với tinh thần kẻ sĩ của một thời, thời Nhân Văn Giai Phẩm, nay không còn nữa
    Bài Biển cả tung ra trên trang đầu tập thơ Trăng ngục như một thách đố đầy tính cách trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả, đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, bên cạnh cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường để cùng nhau hiện hữu.
    Vẫn giọng hào hùng ấy, tiếng thơ không dứt được lãng mạn của tình riêng, bài Trăng ngục chỉ có vài câu, nhưng đã tập trung tất cả những tái tê bất hạnh của người tù, tình tù mà chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng, vầng trăng thay áo, vầng trăng là người bạn tri kỷ để nhà thơ tâm sự:
    Trăng qua song sắt
    Trăng thăm ngục
    Bỗng ta chợt tỉnh- sững sờ
    Trên vai áo tù
    Trăng vá lụa
    Ngày xưa ơi!
    Xa mãi đến bao giờ...
    Hình ảnh "trên vai áo tù trăng vá lụa" thật đẹp, thật êm ái, thật tri âm tri kỷ, đó là sự hài hoà giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa xa và gần, người và trăng, biển và người như nhà thơ thầm ước, trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời mà chỉ có vầng trăng đáp lại.

    Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào. Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ trương chiến tranh là bọn:
    Lái buôn binh lửa
    Ôi! binh lửa triền miên
    Tuổi trẻ gái- trai
    Bị lôi đi- hết
    Dờ dịt sức già gãi đất.
    Chiến tranh nào cũng chôn hết những tài hoa anh hùng , chỉ để lại người già ngồi gãi đất.
    Bài Thu xa viết nên những lời tâm sự tha thiết của người chinh phụ trong chiến tranh, Thu xa đẹp như một giấc mơ cổ điển của thời nay, với những yếu tố, vần điệu đầy những nét thơ mộng của thời xưa:
    Gió vàng đếm lá vàng rơi
    Mười hai bến nước
    Em ngồi quay xa
    Xa quay gấp
    Làn tơ vội đứt
    Em nhủ lòng
    Tơ đứt vì xa
    Tơ vương vó ngựa quan hà
    Xa in dấu ngựa
    Canh gà gọi thu
    Quan hà lộng gió chinh phu
    Rừng thu tắm máu
    Máu thu gội chiều
    Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
    Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
    Xa quay nhẹ
    Làn tơ vẫn đứt
    Em hỏi lòng
    Tơ đứt vì đâu
    Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
    Mà người trần thế
    Mang sầu thiên cung.
    Có lẽ trong các thi sĩ Việt Nam, nhất là miền Bắc, chưa ai dám đả động đến "chính nghĩa của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc" như thế. Đó là một "chân lý tuyệt đối", đụng đến khói hương là trở thành "phản quốc", cho nên chưa ai dùng hoặc dám dùng những hình ảnh đẹp và khốc liệt như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều", để viết về một mùa thu như thế. Rồi tất cả những chữ khác như quay xa, tại sao nhà thơ lại viết "quay xa" mà không viết quay tơ, bởi vì chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa là bánh xe của guồng tơ guồng cửi, xa còn là bánh xe chiến tranh, chiến xa, xa còn là xa lià đứt đọan. Người chinh phụ thời mới này, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng cũng quay bánh chiến xa, nàng cũng "tắm máu rừng thu" như chồng. Đó là cái nhìn táo bạo và độc đáo của nhà thơ, người đã sáng suốt nhận thức được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ. Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông còn đi sâu hơn, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:
    Cờ máu rợp trời
    Lợm gíó!
    Tiếng quốc thiều tăng âm
    Cực đại thét gào
    ...."Thề phanh thây uống máu!..."
    Ta lùng trong kho nhớ
    Nhẩm biên niên sử
    Xin hỏi loài người
    Có quốc thiều nào man rợ thế không.
    Bên cạnh những lời hỏi tội tầy đình như vậy, là những lời thơ trữ tình đẫm lệ, bài Quê hương, đưa ra một hình ảnh đất nước tang thương đầy máu và nước mắt:
    Quê hương ơi!
    Ðường quan lầy nước mắt
    Ðiệu sáo hết du dương
    Mây chìm
    Gió ngủ (...)
    Sông sâu bặt tiếng gọi đò
    Chim hãy cùng ta
    Gọi cành xanh ngóc dậy
    Để một lần
    Quê hương thấy lại quê hương
    Ráng chiều ngụy tạo bình minh
    Lá thuyền tình
    Chỉ lênh đênh giữa dòng.
    Trên mảnh đất quê hương này, dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những tiếng thúc giục giã lên đường, không chỉ là những tiếng hô thắng trận, mà đằng sau tất cả những cờ xí rợp rã đó là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:
    "Phát lệnh chia bôi...
    Ngọn gió giao liên
    Gửi tiếng xa gần
    Trống phát dẫn
    Gia nô thần chết cầm dùi
    Dấm dúi vùi nông
    Chiều bạc mệnh
    Khói hương ơi!
    Ðền miếu tan rồi!...
    Năm tận tháng cùng
    Hòng hõng mong thư tuyến lửa".
    Những hình ảnh chết chóc cứ sừng sững và rũ liệt đi vào lòng người đọc như thế. Những cái chết "không trẻ ", "không mới" như hình ảnh "người chết hai lần" của Trịnh Công Sơn (ra đời cùng thời với thơ Phùng Cung, nhưng ở phía Nam). Thơ Phùng cổ điển hơn lời ca của Trịnh, có lẽ vì Phùng lớn tuổi hơn, vì không cùng một hệ suy tưởng, cho nên thơ Phùng đạo đức "gia tiên" hơn nhạc Trịnh. Tuy cùng viết về một nỗi đau, nhưng Bắc Nam giọng điệu có khác, Phùng Cung viết:
    Bấm dốt ngón tay (....)
    Nhớ người thiên cổ
    Cạn máu kho thiêng
    Kho thiêng rạn vỡ
    Tiếng gia tiên
    Thổn thức dưới mồ
    Những lúc chim về
    Tím lịm chân mây
    Ai liều tảo mộ chiều nay
    Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
    (Thụy Khuê)

    Ông còn tác phẩm Dạ Ký, tả một giấc mơ, trong đó vẽ biếm họa một số chân dung văn học, đặc biệt bốn vị "tứ bất tử": Tố Hữu (Thi hào, viện trưởng danh dự của học viện múa lưỡi), Chế Lan Viên ("nhà thơ giả thiểu số",) Hoài Thanh («nhà lý luận – lối lập luận thời thượng nhất – vừa mũi nhất») và Nguyễn Đình Thi (tên nịnh thần, bồi bút-văn nô, rất chững chạc, rất điệu, có vẻ điêu luyện nhất), có thêm "đương kim vô địch khôn" Tô Hoài (một giai nhân quần lĩnh nhóng nhánh; áo cũng lĩnh nhóng nhánh; khăn cũng lĩnh nhóng nhánh - đội rất điệu đàng - Trên cõi mặt da hoa phấn duyên dáng, răng cũng đen nhóng nhánh - tất nhiên không phải răng lĩnh - chẳng qua để cho nó "uy ni" mềm mại. Giai nhân bước đi nhẹ nhàng tha thướt uốn éo nhún nhẩy, nhún nhẩy nhịp "đánh bồng". Miệng tủm tỉm, mắt liếc qua, liếc lại - Khi giai nhân đi đến cách tôi quãng một tầm nước bọt, tôi sững cả người: "Anh Tô Hoài!", tôi thốt ngầm trong bụng)
    Trong Cát bụi chân ai, viết về Phùng Cung năm 1990, giọng Tô Hoài vẫn còn cay đắng:
    "Tan lớp ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt. Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội văn nghệ từ trên Tuyên Quang. Ở rừng những việc tủn mủn không tên, sổ sách công văn, giữ thư viện, làm lán mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan... Nghĩ đến Phùng Cung, tôi nhớ những việc linh tinh hàng ngày ở cơ quan kháng chiến (...) Phùng Cung ở cơ quan nào dạt đến, không nhớ. Chơi vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đi đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" của Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay.
    Phùng Cung bị bắt khi "nhân văn, nhân võ" đã được dọn dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương". Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm".
    Tôi không thể tưởng tượng một Phùng Cung thế nào, tôi không biết được. Tôi vẫn mơ màng chúng tôi, cây số ba, cây số bảy trên Tuyên, phở Dơi, cà phê Pháo, anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột. Về Hà Nội, đôi ba lần chúng tôi láng cháng lên cà phê Phúc Châu phố trên. Hình như Phùng Cung quê ở Sơn Tây và nỗi nhà địa chủ phú nông thế nào đấy, cũng không bao giờ nói và tôi cũng không hỏi.
    Lại bao nhiêu năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.
    - Phùng Cung phải không?
    - Tôi đây.
    - Còn sống về được à?
    - Cũng không hiểu tại sao anh ạ.
    (...)
    - Anh có biết tôi phải tù bao nhiêu năm?
    - Không biết.
    - Vâng tù biệt giam mười một năm.
    Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp gỡ. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi phải tù.
    Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
    - Chứng nhận để làm gì?
    - Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.
    - Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
    Anh công an cười hồn nhiên, chào"cám ơn bác".
    Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở trên Quần Ngựa. Nghe nói đã khấm khá, làm nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời? Định có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được." (Cát bụi chân ai, Bản Hồng Lĩnh, Cali, 1993, trang 120-123).
    Những dòng trên đây phản ảnh khá rõ tình cảm Tô Hoài dành cho cái xóm "nhà lá" mà ông gọi mỉa là "nhân văn, nhân võ". Đặc biệt Phùng Cung, hồi trẻ, được ông mô tả: "anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột". Người thanh niên này làm việc dưới quyền ông, chỉ được ông giao cho việc vặt, đại loại "công tác chạy hiệu", "Ở rừng", làm "những việc tủn mủn", "đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan"... Việc quan trọng nhất được ông sai là "đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy". Và khi đọc Con ngựa già của chúa Trịnh, ông nghĩ "thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ". Sau khi đi tù 12 năm, về, đến thăm, ông rủa thầm "Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù".... Thế mà vẫn không chừa, vẫn lại chứng nào tật ấy: "Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời?"
    Những dòng này viết năm 1990, hơn bốn mươi năm sau khi NVGP bị dẹp, mà giọng Tô Hoài vẫn chưa thôi miệt thị và hằn học, như vậy đủ biết mấy trang Dạ Ký của Phùng Cung, nặng nợ như thế nào.
    (Nguyễn Minh Cần)
     
    Đang tải...

Chia sẻ trang này